Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Luật Giá mới sẽ nâng chất hoạt động thẩm định giá

Luật Giá mới sẽ nâng chất hoạt động thẩm định giá

Nhiều quy định mới nhằm xốc lại hoạt động thẩm định giá, ngăn ngừa vi phạm sẽ có hiệu lực khi Luật Giá 2023 được thi hành…

Thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá cần nhanh chân thích ứng với những quy định mới, tránh bị xử phạt đáng tiếc.

Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy trước thềm năm mới Giáp Thìn 2024, ông Phạm Văn Bình, Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), khẳng định những quy định mới sẽ nâng chất hoạt động thẩm định giá, nổi bật là chuyên môn hóa hoạt động của thẩm định viên theo lĩnh vực tài sản, điều chỉnh điều kiện hành nghề của thẩm định viên về giá và điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại doanh nghiệp.

Cùng các quy định khác đang nghiên cứu sửa đổi, hành lang pháp lý trong hoạt động thẩm định giá sẽ dần hoàn thiện hơn, giúp hoạt động thẩm định giá phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn.

Thẩm định viên về giá là linh hồn trong doanh nghiệp thẩm định giá. Luật Giá có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024 tới đây đưa ra những quy định nổi bật nào để quản lý chặt chẽ hơn và nâng cao tiêu chuẩn thẩm định viên về giá, thưa ông?

Luật Giá số 16/2023/QH15 đã được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024, trong đó dịch vụ thẩm định giá có nhiều điểm mới.

Ông Phạm Văn Bình, Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính).

“Quy định về điều kiện kinh doanh sẽ được chuyển tiếp. Theo đó, sau thời hạn 12 tháng khi Luật Giá năm 2023 có hiệu lực, nghĩa là từ ngày 1/7/2025, doanh nghiệp thẩm định giá không tuân thủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định sẽ bị Bộ Tài chính thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.

Ngay khi Luật Giá được ban hành, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) nhiều lần thông báo đến doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá hành nghề chủ động rà soát, bảo đảm điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.

Quy định chung về thẩm định giá, Luật Giá 2023 cơ bản kế thừa quy định hiện hành, có sửa đổi, bổ sung, kết cấu cho phù hợp với tính chất của hoạt động thẩm định giá.

Theo đó, tại nội dung về giải thích từ ngữ đã quy định “Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định do doanh nghiệp thẩm định giá, hội đồng thẩm định giá thực hiện theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam”.

Đồng thời, Luật Giá 2023 cũng làm rõ hơn về những điều nghiêm cấm đối với thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá, khách hàng và các đối tượng liên quan khác trong hoạt động thẩm định giá, cũng như về trách nhiệm công khai thông tin của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá.

Đối với Thẻ thẩm định viên về giá, Luật Giá 2023 củng cố theo hướng chuyên môn hóa hoạt động của thẩm định viên theo lĩnh vực tài sản. Theo đó, Thẻ thẩm định viên về giá được chuyên môn hóa theo 02 lĩnh vực gồm: (i) thẩm định giá tài sản; (ii) thẩm định giá doanh nghiệp. Điều này góp phần nâng cao chất lượng thẩm định viên theo lĩnh vực chuyên môn sâu, cũng như tiết kiệm nguồn lực xã hội trong học tập, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, thi cấp Thẻ thẩm định viên về giá.

Bên cạnh đó, do lĩnh vực thẩm định giá rất rộng, nhiều nội dung thuộc nhiều chuyên ngành khác không chỉ giới hạn trong các chuyên ngành kinh tế, kinh tế – kỹ thuật, kỹ thuật, luật và nhằm khuyến khích phát triển nghề thẩm định giá nên một trong những điều kiện dự thi cấp thẻ thẩm định viên là có bằng đại học trở lên mà không phân biệt chuyên ngành đào tạo.

Đối với Thẩm định viên về giá, theo quy định của Luật Giá 2012, thẩm định viên về giá không được hành nghề với tư cách cá nhân; người có thẻ thẩm định viên về giá khi có nhu cầu hành nghề thẩm định giá phải gắn với hoạt động của doanh nghiệp.

Do đó, trên cơ sở kế thừa các quy định hiện hành, Luật Giá 2023 quy định rõ hơn việc đăng ký hành nghề với Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá và quy định rõ thẩm định viên về giá phải là những người có Thẻ thẩm định viên và đang hành nghề thẩm định giá tại các doanh nghiệp thẩm định giá.

Điều kiện để đăng ký hành nghề phải là người có Thẻ thẩm định viên và có kinh nghiệm 36 tháng làm việc thực tế để nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá, trừ đối tượng được đào tạo trình độ đại học trở lên theo chương trình định hướng ứng dụng thì cần đủ 24 tháng.

Bên cạnh đó, nhằm quản lý chặt chẽ hơn đối với các thẩm định viên về giá, Luật cũng quy định về những điều cấm đối với thẩm định viên về giá, quy định một số trường hợp xử lý đối với thẩm định viên về giá khi vi phạm pháp luật về thẩm định giá như tước thẻ, thu hồi thẻ thẩm định viên về giá.

Với doanh nghiệp, điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá có những thay đổi ra sao, thưa ông?

Đối với điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, Luật Giá 2023 bổ sung điều kiện nhằm củng cố hoạt động của các doanh nghiệp thẩm định giá như: quy định điều kiện về số lượng thẩm định viên tại doanh nghiệp thẩm định giá từ ba lên có ít nhất năm thẻ thẩm định viên về giá.

Các doanh nghiệp có trách nhiệm mua bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp hoặc trích lập dự phòng. Đồng thời, chi nhánh phải có ít nhất ba thẻ thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp và các chi nhánh khác.

Đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, Luật mới có bổ sung quy định tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn, cổ đông là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo quyền chi phối của thẩm định viên đối với hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá.

Luật Giá 2023 quy định riêng một điều về người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá để nâng cao tính pháp lý; đồng thời, tiếp tục khẳng định giá trị pháp lý của các quy định này trong thực tiễn quản lý hoạt động thẩm định giá.

Luật củng cố quy định về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá nhằm quản lý chặt chẽ hơn hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp có biến động về thẩm định viên về giá ảnh hưởng đến điều kiện hoạt động. Đồng thời, cũng củng cố và làm rõ hơn quyền và nghĩa vụ, nhất là nghĩa vụ của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá trong hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá.

Bên cạnh đó, Luật Giá 2023 bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá về kết quả thẩm định giá. Theo quy định, mối quan hệ giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng được thực hiện thông qua hợp đồng thẩm định giá là hợp đồng dân sự.

Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua cơ chế: (i) thương lượng, hòa giải trên cơ sở những cam kết đã ghi trong hợp đồng thẩm định giá; (ii) giải quyết bằng trọng tài thương mại; (iii) khởi kiện tại tòa án theo quy định của pháp luật. Để tạo điều kiện cho các bên và làm rõ cơ chế giải quyết tranh chấp, tại Luật Giá 2023 quy định một điều để dẫn chiếu các quy định hiện hành nhằm triển khai thực hiện thuận lợi khi có phát sinh.

Tại Luật Giá 2023 cũng bổ sung một chương (Chương VII) quy định về công tác thanh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá với các quy định về nguyên tắc, nội dung và trách nhiệm của các đơn vị trong việc triển khai thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá nhằm tăng cường hơn nữa công tác này trong thực tiễn quản lý nhà nước đối với dịch vụ thẩm định giá.

Để nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định, trong Luật Giá bổ sung nhiều nội dung mới về “rào cản” kỹ thuật gia nhập thị trường với doanh nghiệp như nâng số lượng thẩm định viên (từ ba lên năm), quy định vốn điều lệ… Tuy nhiên, nhiều ý kiến nghi ngờ hiệu quả của quy định này bởi nâng lượng chưa chắc nâng được chất, ông bình luận gì về điều này?

Chất lượng hoạt động thẩm định giá đến từ nhiều phía và từ nhiều yếu tố. Luật Giá 2023 tiếp cận vấn đề này theo hướng bao quát và tổng thể, tức vừa quan tâm củng cố về mặt lượng, vừa quan tâm về mặt chất đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá.

Theo đó, Luật Giá 2023 nâng điều kiện đối với doanh nghiệp thẩm định giá từ ba lên có ít nhất năm thẻ thẩm định viên về giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá từ hai lên có ít nhất ba thẻ thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp và các chi nhánh khác.

Đối với quy định tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn, cổ đông là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp cổ phần và trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo quyền chi phối của thẩm định viên đối với hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá, tránh bị nhóm cổ đông không nắm giữ chuyên môn nhưng lại khống chế và chi phối doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn.

Do đó, nhận định cho rằng việc nâng số lượng thẩm định viên như từ 3 lên 5 hay quy định về tỷ lệ vốn điều lệ nắm giữ của thẩm định viên về giá… không có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng thẩm định giá chưa thật sự phù hợp với lĩnh vực thẩm định giá hiện nay.

Ông đưa ra đề xuất gì để doanh nghiệp có thể kịp thời đánh giá kiểm soát chất lượng thẩm định viên, báo cáo thẩm định giá, sớm ngăn ngừa những vi phạm không đáng có như vừa qua?

Luật Giá 2023 tiếp cận chất lượng hoạt động thẩm định giá từ chính các thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá. Thẩm định viên chịu trách nhiệm về chuyên môn trong quá trình thực hiện và bảo đảm báo cáo thẩm định giá tuân thủ các Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam, cũng như bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan, chính xác trong quá trình thẩm định giá tài sản.

Đồng thời, doanh nghiệp thẩm định giá có nghĩa vụ xây dựng, tổ chức thực hiện kiểm soát chất lượng báo cáo thẩm định giá để phát hành và cung cấp chứng thư thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá; bố trí thẩm định viên về giá…

Tại Luật Giá 2023 cũng quy định rõ những điều cấm, cũng như quyền và nghĩa vụ đối với thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá. Đồng thời, tại Luật Giá 2023 quy định về việc công khai thông tin, việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động thẩm định giá, thanh tra, kiểm tra hoạt động thẩm định giá, quy định về việc đánh giá hoạt động doanh nghiệp thẩm định giá.

Hiện nay, Bộ Tài chính đang dự thảo thông tư quy định liên quan đến việc đánh giá hoạt động doanh nghiệp thẩm định giá, trong đó việc đánh giá được thực hiện đa chiều, bao gồm cả việc duy trì, củng cố điều kiện hoạt động; xây dựng đội ngũ, chủ động học tập, nghiên cứu; cũng như việc bị phản ánh, khiếu nại, tố cáo, bị phạt vi phạm hành chính… thông tin về đánh giá sẽ được công khai hàng năm.

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 7+8-2024 phát hành ngày 12-25/02/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tạiđây:

//postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

VCCI: Nhiều quy định rắc rối, thủ tục rườm rà trong dự thảo về thi và cấp thẻ thẩm định viên

VCCI: Nhiều quy định rắc rối, thủ tục rườm rà trong dự thảo về thi và cấp thẻ thẩm định viên

VCCI cho rằng quy định không cấp lại thẻ thẩm định viên về giá khi bị mất thẻ, hồ sơ, đăng ký dự thi nhiều thủ tục trong dự thảo trên đang gây phiền hà, gánh nặng hành chính cho đối tượng được cấp thẻ…

Đầu năm 2024, Bộ Tài chính trao 161 thẻ thẩm định viên về giá, nâng tổng số thẩm định viên về giá được cấp thẻ lên 2.513 người.

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản gửi Bộ Tài chính góp ý dự thảo Thông tư quy định về việc thi, cấp, quản lý, thu hồi thẻ thẩm định viên về giá.

HỒ TRỰC TUYẾN VẪN PHẢI CÓ HỒ SƠ GIẤY ĐỂ ĐỐI CHIẾU

Liên quan đến kỳ thi cấp thẻ thẩm định viên về giá, Khoản 2 Điều 4 dự thảo quy định về hồ sơ đăng ký dự thi gồm: bản chụp/scan các tài liệu minh chứng đáp ứng điều kiện theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 44 của Luật Giá.

VCCI cho rằng đây là văn bản quy định chi tiết nên quy định theo cách thức trên là chưa đủ rõ ràng, cụ thể về các loại tài liệu thí sinh phải cung cấp trong hồ sơ đăng ký dự thi. Do đó, để đảm bảo tính minh bạch, cơ quan này đề nghị ban soạn thảo quy định các tài liệu chứng minh đáp ứng điều kiện theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 44 Luật Giá cụ thể là các tài liệu gì.

Về phương thức đăng ký dự thi, theo quy định tại Điều 4 dự thảo, trình tự đăng ký dự thi, thí sinh ban đầu sẽ đăng ký trên Cổng thông tin điện tử dịch vụ công trực tuyến, sau khi có kết quả đạt yêu cầu sẽ nộp hồ sơ giấy (các giấy tờ đã nộp trực tuyến) để Hội đồng thi rà soát hồ sơ và làm thủ tục trình cấp Thẻ thẩm định viên về giá.

“Như vậy, trình tự thủ tục trên sẽ không thực hiện hoàn toàn trên môi trường điện tử, thí sinh vẫn phải nộp hồ sơ giấy để Hội đồng thi đối chiếu và xem xét. Điều này cần xem xét lại, bởi trong xu hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay, các thủ tục hành chính được thực hiện trên môi trường điện tử hoàn toàn, người thực hiện thủ tục không cần phải nộp hồ sơ giấy để đối chiếu”, VCCI nêu rõ.

Do đó, để đảm bảo tinh thần cải cách thủ tục hành chính, VCCI đề nghị ban soạn thảo thiết kế trình tự đăng ký dự thi theo hướng thực hiện trên môi trường điện tử hoàn toàn, tức là bỏ quy định tại khoản 3 Điều 4.

Về tổ chức kỳ thi, theo Khoản 3 Điều 5 Dự thảo, thời hạn thông báo điểm là 60 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ thi, trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể kéo dài thêm không quá 30 ngày.

Thời hạn công bố điểm thi sẽ ảnh hưởng đến thời gian cấp thẻ thẩm định viên về giá và việc hành nghề của các thẩm định viên. Vì vậy, VCCI đề nghị ban soạn thảo cân nhắc quy định rút ngắn thời hạn công bố điểm thi, có thể là 30 – 45 ngày và quy định cụ thể hơn “trường hợp cần thiết” là những trường hợp nào để Chủ tịch Hội đồng thi sẽ quyết định kéo dài thời gian công bố kết quả thi.

LÝ DO KHÔNG CẤP LẠI THẺ THẨM ĐỊNH VIÊN VỀ GIÁ CHƯA THUYẾT PHỤC

Về trình tự, thủ tục cấp thẻ thẩm định viên về giá, Khoản 1 Điều 22 dự thảo quy định “người dự thi cấp thẻ thẩm định viên về giá đạt điểm thi theo quy định tại Điều 13 Thông tư này có hồ sơ dự thi (bản giấy hợp lý hợp lệ) được Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cấp thẻ thẩm định viên về giá”.

VCCI cho rằng quy định này là chưa đủ rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục cấp thẻ thẩm định viên về giá, thời gian bao lâu kể từ khi công bố kết quả thi thì người dự thi được cấp thẻ thẩm định viên về giá.

Về việc cấp lại thẻ thẩm định viên về giá, Điều 22 dự thảo quy định “thẻ thẩm định viên về giá không được cấp lại” (khoản 2). Trường hợp người được cấp thẻ thẩm định viên về giá bị mất, bị cháy, bị hủy hoại do thiên tại, địch họa hoặc lý do bất khả kháng khác thì được cấp Giấy xác nhận đã cấp thẻ thẩm định viên về giá (khoản 3).

Quy định không cấp lại thẻ thẩm định viên về giá có thể gây khó khăn cho các thẩm định viên khi bị mất thẻ. Bởi trong các quy định của Luật Giá 2023 liên quan đến đăng ký hành nghề thẩm định giá, giấy tờ phải cung cấp là “thẻ thẩm định viên về giá” chứ không phải là “Giấy xác nhận đã cấp thẻ thẩm định viên về giá”.

Đại diện VCCI bày tỏ sự khó hiểu, không rõ mục tiêu của quy định không cấp lại thẻ thẩm định viên về giá.

“Việc cấp lại thẻ thẩm định viên về giá có tác động gì tới hoạt động quản lý nhà nước hay không? Trong hệ thống pháp luật, có những dạng chứng chỉ tương tự, ví dụ như thẻ hướng dẫn viên du lịch, khi bị mất vẫn được cấp lại”, VCCI đặt vấn đề.

Do đó, đề nghị ban soạn thảo cân nhắc quy định cấp lại thẻ thẩm định viên về giá thay vì Giấy xác nhận đã cấp thẻ thẩm định viên về giá.

Còn về trường hợp thẻ thẩm định viên về giá bị mất, bị cháy, bị hủy hoại, Khoản 3 Điều 22 dự thảo quy định, trường hợp người được cấp thẻ thẩm định viên về giá nhưng bị mất, bị cháy, bị hủy hoại do thiên tai, địch họa hoặc lý do bất khả kháng khác sẽ phải nộp hồ sơ để được cấp Giấy xác nhận đã cấp thẻ thẩm định viên về giá. Trong hồ sơ phải có “Giấy xác nhận của cơ quan công an hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú của người có thẻ thẩm định viên về giá bị mất, bị cháy, bị hủy hoại do thiên tai, địch họa hoặc lý do bất khả kháng”.

“Việc yêu cầu giấy xác nhận này sẽ gia tăng thêm gánh nặng về thủ tục hành chính cho người thực hiện thủ tục. Trên thực tế, cơ quan công an hay Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ khó có căn cứ để xác nhận việc thẻ thẩm định viên về giá bị cháy, bị hủy, bị mất ngoài lời khai của người đi xin xác nhận”, VCCI nhấn mạnh.

Mặc khác, các thủ tục hành chính có tính chất tương tự (cấp lại giấy phép khi bị mất, hư hỏng) trong hệ thống pháp luật thường không yêu cầu phải có loại giấy xác nhận này.

Để đảm bảo tinh thần cải cách thủ tục hành chính, VCCI đề nghị ban soạn thảo bỏ “Giấy xác nhận của cơ quan công an hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú của người có thẻ thẩm định viên về giá bị mất, bị cháy, bị hủy hoại do thiên tai, địch họa hoặc lý do bất khả kháng” tại khoản 3 Điều 22 dự thảo.

Ngoài ra, khoản 3 Điều 22 dự thảo quy định thời hạn để giải quyết cho trường hợp cấp lại do mất, hư hỏng, bị hủy hoại là 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Đây là khoảng thời gian khá dài nếu so sánh với các thủ tục tương tự.

Hơn nữa, đây là thủ tục đơn giản, các thông tin dữ liệu cơ quan quản lý đã có, do đó không cần thiết phải kéo dài thời gian tới 15 ngày mới cấp lại. Do đó, cơ quan này đề nghị ban soạn thảo rút ngắn xuống còn 5 ngày làm việc, tương tự như thời gian giải quyết của nhiều thủ tục cấp lại giấy phép khác trong hệ thống pháp luật.

Chống thất thoát khi cổ phần hoá: Cách nào?

Chống thất thoát khi cổ phần hoá: Cách nào?

Hai nhóm tài sản lớn nhất khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thường là đất đai và tài sản có trên đất. Đặc biệt, định giá đất là khâu quan trọng nhưng cũng là mắt xích tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến thất thoát tài sản nhà nước…

Xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là mắt xích vô cùng quan trọng nhằm xác định đúng, đủ giá trị tài sản khi cổ phần hóa, thoái vốn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong quá trình đó, đã xuất hiện tình trạng giá trị tài sản thẩm định giá thấp hơn thị trường, làm thất thoát tài sản nhà nước. Làm thế nào để giải quyết tình trạng này?

Với chủ đề “Thanh lọc hoạt động thẩm định giá”, chuyên mụcĐối thoạicùngVnEconomyđã có cuộc trao đổi với ông Phạm Minh Thuỵ, Trưởng phòng Nghiên cứu Giá cả và Thị trường, Viện Kinh tế – Tài chính, về những “điểm đen” trong thẩm định giá khi cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Trong đó, định giá đất đang là ỗ hổng lớn do cơ sở pháp lý, cơ chế chính sách còn chưa rõ ràng, cập nhật.

Hiện nay, đất của doanh nghiệp đang sử dụng mà trả tiền thuê đất một lần thì được đưa vào tính giá trị doanh nghiệp. Đất thuê trả tiền hàng năm sẽ không được đưa vào tính giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá.

“Đối với các doanh nghiệp trả tiền thuê đất một lần, giá trị mảnh đất được đưa vào định giá doanh nghiệp, nhưng sử dụng bảng giá đất của UBND cấp tỉnh/thành phố công bố tại thời kỳ đó làm căn cứ định giá. Bảng giá này không thể hiện hết lợi thế về vị trí của đất đai nên tạo ra sự chênh lệch giá khá lớn”, ông Phạm Minh Thuỵ cho biết. Giá đất ở ngã 3, ngã 4 khác xa so với giá đất trong hẻm…Đây là điểm yếu trong định giá tài sản doanh nghiệp mà chỉ dựa vào bảng giá đất của UBND cấp tỉnh/thành phố công bố.

Kết quả khảo sát của Viện Kinh tế Tài chính chỉ ra rằng trong 5 năm trở lại đây, giá đất mà Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố công bố chỉ bằng 20% giá thị trường.

Đó cũng chính là nguyên nhân của tình trạng nhiều nhà đầu tư muốn thâu tóm doanh nghiệp nhà nước không phải vì hiệu quả, triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp mà chủ yếu nhìn vào đất đai, trông chờ chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

Tính đến cuối năm 2021, Việt Nam có khoảng 218 tổ chức, doanh nghiệp được Bộ Tài chính công nhận chức năng thẩm định giá. Mặc dù vậy, có rất nhiều doanh nghiệp thẩm định giá có quy mô nhỏ, số thẩm định viên cơ hữu ít hoặc không có mà chỉ đi thuê cộng tác viên. Do đó, rất hiếm doanh nghiệp thẩm định giá có khả năng đảm nhận việc xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá.

Để hạn chế thất thoát tài sản nhà nước khi cổ phần hoá, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan chức năng nên tăng cường các biện pháp hậu kiểm.

Bộ Tài chính cũng đang dự kiến chuyển kết quả thẩm định giá doanh nghiệp sang Kiểm toán Nhà nước xem xét trong thời hạn 30 ngày. Nếu Kiểm toán Nhà nước chấp thuận thì phương án thẩm định giá đó mới được sử dụng để xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần tận dụng triệt để quyền năng của thị trường nhằm tối ưu lợi ích mà nhà nước có thể thu về khi cổ phần hoá, thoái vốn. Theo đó, các cơ quan chịu trách nhiệm về cổ phần hoá chỉ nên coi kết quả thẩm định giá là thông tin tham khảo để đưa ra giá sàn trước khi bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước phải được đưa ra đấu giá công khai, cạnh tranh.

Đối với các doanh nghiệp yếu kém, cần tái cấu trúc trước khi cổ phần hoá…

Luật Giá (sửa đổi): Nâng cao về “chất”, mạnh tay loại trừ những “con sâu” trong hoạt động thẩm định giá

Luật Giá (sửa đổi): Nâng cao về “chất”, mạnh tay loại trừ những “con sâu” trong hoạt động thẩm định giá

Sáu tháng đầu năm 2022 chỉ có vỏn vẹn 3 doanh nghiệp thẩm định giá được cấp mới trong khi đó số lượng doanh nghiệp bị “tuýt còi”, tước giấy chứng nhận tăng nóng. Luật Giá (sửa đổi) dự kiến sẽ kiện toàn các quy định để nâng “chất” và xử nghiêm sai phạm, loại trừ những “con sâu” trong hoạt động thẩm định giá…

Tính đến hết tháng 6/2022, Bộ Tài chính thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của 123 doanh nghiệp.

Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) vừa phối hợp với Tổ chức quốc tế Đức (GIZ) tổ chức hội thảo lấy ý kiến dự thảo Luật Giá (sửa đổi) về thẩm định giá, từ đó, góp phần củng cố và phát triển hoạt động thẩm định giá nói chung và dịch vụ thẩm định giá nói riêng chuyên nghiệp, chuyên sâu các giao dịch về tài sản trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.

Đồng thời, Luật Giá (sửa đổi) cũng sẽ kiện toàn các quy định, tăng cường hoạt động quản lý kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá; đồng thời, thực hiện nghiêm, kịp thời việc xử lý thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá. Từ đó, ngăn chặn, xử lý các sai phạm trong hoạt động thẩm định giá.

DOANH NGHIỆP “DÈ DẶT” ĐĂNG KÝ MỚI, SỐ LƯỢNG BỊ “TUÝT CÒI” TĂNG NÓNG

Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Quản lý giá, cho biết Luật Giá được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013.

Sau gần 9 năm thực hiện, đến nay bối cảnh kinh tế – xã hội có những thay đổi, hệ thống pháp luật dân sự kinh tế ngày càng được hoàn thiện hơn, cũng có những tác động nhất định đến công tác quản lý giá và thẩm định giá.

Do đó, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính trình Chính phủ hồ sơ sửa đổi Luật Giá với 9 nhóm chính sách, trong đó có 3 nhóm chính sách liên quan đến thẩm định giá.

Theo Cục Quản lý giá, đến thời điểm hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về thẩm định giá về cơ bản được ban hành đầy đủ và đồng bộ.

Bộ Tài chính ban hành Hệ thống Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam bao gồm 13 tiêu chuẩn quy định và hướng dẫn đầy đủ về nghiệp vụ đối với dịch vụ thẩm định giá, trong đó, quy định cụ thể về các cách tiếp cận và phương pháp thẩm định giá đối với các loại tài sản như: bất động sản, máy thiết bị, doanh nghiệp, tài sản vô hình…

Toàn cảnh hội thảo lấy ý kiến dự thảo Luật Giá (sửa đổi) về thẩm định giá.

Thống kê Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho thấy, các doanh nghiệp thẩm định giá được cấp mới tăng nhanh, nhất là năm 2016 tăng 48 doanh nghiệp, năm 2018 tăng 50 doanh nghiệp, năm 2020 tăng 51 doanh nghiệp.

Tuy nhiên, từ khi quy định về cấp mới có hiệu lực theo Nghị định số 12/2021/NĐ-CP ban hành ngày 24/2/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 6/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá và có hiệu lực từ ngày 1/5/2021, số lượng doanh nghiệp thẩm định giá cấp mới giảm đáng kể.

Theo đó, từ khi Nghị định số 12 có hiệu lực, trong 8 tháng còn lại của năm 2021 chỉ có 8 doanh nghiệp được cấp mới và 6 tháng đầu năm 2022 chỉ có 3 doanh nghiệp.

Như vậy, tính đến hết tháng 6/2022 cả nước có 431 doanh nghiệp được cấp mã giấy chứng nhận, trong đó chỉ có hơn 300 doanh nghiệp đủ điều kiện và đang hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.

Về rà soát điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp thẩm định giá năm 2022 theo quy định mới tại Nghị định số 12, kết quả chỉ có 279 doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động từ ngày 1/1/2022 so với tổng số 364 doanh nghiệp hoạt động trong năm 2021, giảm sâu 23%. Đồng thời cũng chỉ bằng 84% so với số doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động được công bố vào đầu năm 2021.

Báo cáo của Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính).

Việc áp dụng quy định mới tại Nghị định số 12 cũng siết chặt quản lý nhà nước đối với hoạt động thẩm định giá, hướng tới nâng cao chất lượng trong bối cảnh điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá được đánh giá là còn quá “mở” dẫn đến số lượng các doanh nghiệp thẩm định giá phát triển nóng vượt quá định hướng phát triển nghề giai đoạn 2013 – 2020.

Cũng theo lãnh đạo Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), bên cạnh những thành công trong công tác quản lý nhà nước đối với kinh doanh dịch vụ thẩm định giá giai đoạn qua, phát sinh hàng loạt tồn tại.

Theo đó, hiệu quả quản lý Nhà nước chưa đạt kỳ vọng. Cùng với đó, hình thành nhiều doanh nghiệp nhỏ với số lượng thẩm định viên tối thiểu.

Đáng quan ngại, xuất hiện hiện tượng tiêu cực và tình trạng cạnh tranh không lành mạnh bằng cách hạ thấp giá và chất lượng dịch vụ… dẫn đến tình trạng không bảo đảm lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, gây bức xúc trong dư luận và xã hội.

Cùng với đó, nhiều ý kiến bày tỏ nỗi lo về loạt hiện tượng tiêu cực giữa thẩm định viên với các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong các dự án đấu giá, đấu thầu, mua sắm công để đẩy giá, dìm giá khiến Nhà nước phải mua đắt, bán rẻ trong nhiều dự án.

Gần đây nhất, dư luận không khỏi hoài nghi vì hiện tượng sai phạm, tiêu cực của một số doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá hành nghề cố tình vi phạm tiêu chuẩn đạo đức hành nghề, vi phạm tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, thông đồng với khách hàng làm sai lệch kết quả thẩm định giá ngày càng gia tăng. Đặc biệt là trong việc thẩm định giá phục vụ đấu thầu mua sắm thiết bị vật tư y tế, kit test Covid-19 khiến hàng loạt bác sỹ, quan chức vướng vòng lao lý.

Trước “báo động” về đạo đức thẩm định viên và chất lượng thẩm định giá đi xuống, Bộ Tài chính tăng cường quản lý chặt các doanh nghiệp thẩm định giá.

Theo đó, tính đến hết tháng 6/2022, Bộ Tài chính thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của 123 doanh nghiệp; tiến hành đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đối với 68 lượt doanh nghiệp do không đủ điều kiện hoạt động theo quy định của Luật giá.

Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp bị Bộ Tài chính “tuýt còi” đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và tước giấy chứng nhận chỉ trong những tháng đầu năm 2022 tăng “nóng” so với nhiều năm trước đây.

NGĂN NGỪA THẨM ĐỊNH VIÊN CẤU KẾT ĐỂ TRỤC LỢI

Tại hội thảo, nhiều đại biểu cho rằng trong thời gian tới, nền kinh tế thị trường nước ta sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn, các giao dịch kinh tế ngày càng phong phú đa dạng với các yêu cầu về phát triển kinh tế bền vững, minh bạch và lành mạnh.

Điều đó đặt ra những cơ hội và thách thức lớn đối với sự phát triển ngành nghề dịch vụ thẩm giá trong thời gian sắp tới.

Do đó, các đại biểu đều đồng tình rằng nghề thẩm định giá cần phải được tiếp tục củng cố và có bước tiến bộ vượt bậc, khi đó, mới có thể đáp ứng được sự phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới với yêu cầu cao hơn, đó là các doanh nghiệp cần phải có quy mô, năng lực thẩm định giá lớn hơn.

Cùng với đó, thẩm định viên về giá yêu cầu phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt hơn và chuyên sâu, có tính chuyên nghiệp cao hơn. Đồng thời, quản lý nhà nước về lĩnh vực này chặt chẽ hơn.

Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực thẩm định giá một các đầy đủ và đồng bộ, nghiên cứu sửa đổi Luật giá về thẩm định giá, cũng như các văn bản hướng dẫn…

Góp ý về Luật Giá (sửa đổi) tại hội thảo, ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam, cho rằng cần loại bỏ các quy định về vốn điều lệ của doanh nghiệp thẩm định giá; việc tiết lộ thông tin về hồ sơ khách hàng thẩm định giá và tài sản được thẩm định giá, trừ trường hợp được khách hàng thẩm định giá hoặc cho phép.

Ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam phát biểu tại hội thảo

“Cần sửa đổi quy định cấm làm việc trong cùng một thời gian cho từ hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên, thay bằng cấm hành nghề thẩm định giá cho từ hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên.

Cùng với đó, tất cả các quy định thông đồng về giá, thẩm định giá đều phải bổ sung cụm từ “để trục lợi” (Khoản 3, Điều 4) hoặc thông đồng, cấu kết là phải có đối tác họ “câu kết với nhau” chứ không thể mình câu kết với mình”, ông Thoả góp ý.

Đồng thời, Chủ tịch Hội Thẩm định giá cũng đề nghị bổ sung các quy định Tiêu chuẩn thẩm định viên về giá; về người cho thuê, cho mượn, đi thuê, đi mượn thẻ thẩm định viên về giá không được đăng ký hành nghề thẩm định giá.

Quy định về thẩm định viên phải chịu trách nhiệm chính về kết quả thẩm định giá được ban hành tại Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá; hay nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá khi có khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp thẩm định giá cùng tham gia thẩm định giá một loại tài sản có thông số kỹ thuật và điều kiện tương đồng…

Cùng với đó, theo ông Thoả, không nên quy định cứng “Có Thẻ thẩm định viên về giá về thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp” mà cần quy định theo hướng mở tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp, tức là “Có Thẻ thẩm định viên về giá về thẩm định giá tài sản và/hoặc thẩm định giá doanh nghiệp…

Các nguyên tắc trong thẩm định giá bất động sản

Các nguyên tắc trong thẩm định giá bất động sản

1/ Nguyên tắc sử dụng cao nhất và tốt nhấtMột bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất nếu tại thời điểm định giá cho thấy bất động sản đó đang được sử dụng hợp pháp cũng như đang cho thu nhập ròng lớn nhất hoặc có khả năng cho giá trị hiện tại của thu nhập ròng trong tương lai là lớn nhất, sử dụng cao nhất và tốt nhất đó có thể tồn tại và kéo dài liên tục trong một khoảng thời gian nhất định.
Sử dụng cao nhất và tốt nhất được xem là một trong số các nguyên tắc quan trọng nhất của định giá bất động sản.
Nội dung của nguyên tắc sử dụng cao nhất và tốt nhất được phản ánh ở 4 mặt sau đây:
– Về mặt vật chất, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất khi nó thỏa mãn được nhiều sự lựa chọn sử dụng nhất ( cho nhiều người hoặc cho một người cụ thể);
– Về mặt pháp luật, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất khi mà việc sử dụng bất động sản phải hợp pháp, được nhà nước thừa nhận và bảo hộ.
– Về mặt sử dụng, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất khi mà bất động sản đó cho thu nhập ròng cao nhất hoặc cho giá trị hiện tại của thu nhập ròng trong tương lai là cao nhất.
– Về mặt thời gian, một bất động sản được đánh giá là sử dụng cao nhất và tốt nhất khi mà thời gian cho thu nhập ròng cao nhất kéo dài nhất.
2/ Nguyên tắc cung – cầu
Nguyên tắc này cho rằng: Giá thị trường được xác định bằng sự tương tác của cung và cầu. Khi lượng cung tăng lên mà lượng cầu không tăng hoặc giảm thì giá thị trường sẽ giảm, khi lượng cung giảm mà lượng cầu không giảm hoặc tăng thì giá thị trường sẽ tăng lên, khi lượng cung và lượng cầu cùng tăng hoặc cùng giảm thì giá sẽ tăng hoặc giảm tùy theo tốc độ tăng, giảm của cung và cầu, giá tăng khi tốc độ tăng của cầu lớn hơn cung và ngược lại.
3/ Nguyên tắc đánh giá các yếu tố tham gia quá trình tạo ra thu nhập thực từ bất động sản
Nguyên tắc này cho rằng, để ước tính giá trị thực một bất động sản, cần phải đánh giá đầy đủ các yếu tố tham gia quá trình tạo ra thu nhập thực từ bất động sản đó. Việc đánh giá các yếu tố nói trên được thực hiện thông qua hoạt động xem xét, đánh giá mặt giá trị của từng yếu tố. Để đảm bảo tính đồng nhất về mặt giá trị, thường trong quá trình đánh giá người ta đưa giá trị của từng yếu tố về cùng một mặt bằng thời gian. Các yếu tố tham gia quá trình tạo ra thu nhập thực từ bất động sản bao gồm: Lao động, vốn, đất đai, quản lý.
4/ Nguyên tắc thay đổi
Nguyên tắc này cho rằng giá thị trường của một loại bất động sản cụ thể không bao giờ giữ nguyên vì các lực lượng tự nhiên, kinh tế, nhà nước và pháp luật, xã hội và môi trường luôn tác động làm thay đổi giá trị của bất động sản, thay đổi môi trường của bất động sản, thay đổi cả xu thế của thị trường đối với loại bất động sản đó như xu thế về quy mô đầu tư bất động sản, về chất lượng đầu tư bất động sản… Sự thay đổi là một quy luật khách quan, nó diễn ra liên tục không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, việc ước tính giá thị trường hay việc định giá trên cơ sở giá thị trường tuy chỉ có giá trị vào thời điểm định giá, nhưng nó bao hàm phản ánh được cả xu thế tương lai của bất động sản. Nguyên tắc “thay đổi” luôn vận dụng kết hợp với nguyên tắc “dự báo”.
5/ Nguyên tắc cân đối
Cân đối trong thị trường bất động sản được hiểu, đó là sự đầu tư hợp lý giữa các yếu tố ảnh hưởng tới giá thị trường một bất động sản hoặc các bất động sản trong cùng một khu vực, một vùng xác định, để giá trị thu được từ chúng đạt tới mức cao nhất.
Nguyên tắc cân đối có ý nghĩa kép.
– Khi áp dụng đối với một bất động sản riêng biệt: Nguyên tắc này cho rằng giá thị trường tối đa đạt tới khi các yếu tố tạo ra bất động sản đạt tới trạng thái cân đối.
– Khi áp dụng vào một vùng hay một khu vực cụ thể, nguyên tắc cân đối chỉ ra rằng giá thị trường tối đa của một bất động sản có thể đạt tới khi quỹ đất dành cho việc xây dựng bất động sản đó được sử dụng hợp lý
Nguyên tắc cân đối khi áp dụng cho một vùng hay một khu vực cụ thể nào đó thường có sự kết hợp với nguyên tắc cạnh tranh.
6/ Nguyên tắc phù hợp
Nguyên tắc này cho rằng, việc định giá một bất động sản phải trên cơ sở một giá trị sử dụng duy nhất đối với toàn bộ bất động sản đó. Trong thực tế một bất động sản có thể được sử dụng vào nhiều mục đích. Do đó, mỗi bất động sản cùng một lúc có thể có nhiều loại giá trị khác nhau như giá trị để ở, giá trị để kinh doanh thương mại – dịch vụ, giá trị hiện tại, giá trị tiềm năng… Trong đó, mục đích sử dụng đất là căn cứ mang tính pháp lý và giữ vai trò quyết định chi phối mục đích sử dụng của toàn bất động sản. Vì vậy, khi định giá một bất động sản phải căn cứ vào mục đích sử dụng chính của bất động sản để định giá, không được lẫn lộn với các sử dụng khác và càng không được lẫn lộn với sử dụng tiềm năng.
7/ Nguyên tắc cạnh tranh
Thị trường bất động sản là một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, bởi vậy tính chất và mức độ của cạnh tranh không gay gắt như các loại hàng hoá thông thường. Song ảnh hưởng của cạnh tranh có tầm quan trọng trong việc xác định giá của bất động sản. Các thửa đất có thể không giống nhau nhưng chúng có thể thay thế được cho nhau. Người mua bất động sản thuộc khu vực dân cư có thể thích một vị trí hoặc một loại nhà biệt thự, nhưng người đó cũng có thể thay bằng một vị trí hoặc một laọi nhà ở khác nếu giá cả hấp dẫn. Những người kinh doanh bất động sản có thể chuyển từ thị trường bất động sản địa phương này để đến thị trường bất động sản của địa phương khác để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.
8/ Nguyên tắc đóng góp
Nguyên tắc đóng góp cho rằng: Giá trị của một bộ phận cấu thành bất động sản tuỳ thuộc vào sự đóng góp của nó vào giá trị tổng thu nhập từ bất động sản mà nó tham gia hợp thành, nếu thiếu nó thì sẽ làm giảm giá trị thu nhập của bất động sản mà nó tham gia hợp thành.
Với các bất động sản tạo ra lợi nhuận thì giá trị của một phần tài sản nào đó của bất động sản có thể được đo bằng định lượng về giá trị mà nó đóng góp vào tổng thu nhập thực, vì thu nhập thực có thể được vốn hoá thành giá trị.
9/ Nguyên tắc tăng và giảm phần sinh lợi
Nguyên tắc này cho rằng khi sự gia tăng liên tục của một nhân tố trong sản xuất diễn ra bên cạnh các nhân tố khác được cố định, thì thu nhập thực (thu nhập ròng) sẽ tăng lên tới một giới hạn nhất định. Sau đó sự gia tăng liên tục của nhân tố đó sẽ làm giảm giá trị thu nhập thực (thu nhập ròng) trong tương lai.
10/ Nguyên tắc tăng, giảm giá trị bất động sản do tác động bởi những bất động sản khác.Tăng, giảm giá trị bất động sản do tác động bởi những bất động sản khác trong định giá bất động sản được hiểu, đó là sự phản ánh tính phụ thuộc về mặt giá trị của bất động sản chủ thể được đầu tư so với các bất động sản so sánh trong cùng một vùng giá trị.
Giá trị thị trường của những bất động sản có giá trị thực thấp sẽ được tăng thêm nhờ sự hội nhập với các bất động sản khác trong vùng có cùng kiểu loại sử dụng nhưng chúng có giá trị cao hơn nhiều lần.
Những bất động sản có giá trị thực cao nằm trong một khu vực mà những bất động sản ở đó chủ yếu có giá trị thấp hơn nhiều lần, thì giá trị thị trường của các bất động sản có giá trị cao đó có chiều hướng giảm so với giá trị thực của chính nó.
11/ Nguyên tắc thay thế
Nguyên tắc này cho rằng: Giá thị trường của một bất động sản chủ thể có khuynh hướng bị áp đặt bởi giá bán một bất động sản thay thế khác tương tự về giá trị và các tiện dụng so với bất động sản chủ thể, với giả thiết không có sự chậm trễ trong việc thoả thuận giá cả và thanh toán.
Nguyên tắc thay thế đóng vai trò là cơ sở cho ba phương pháp định giá bất động sản: định giá bất động sản theo giá thành, theo thị trường và theo thu nhập.
12/ Nguyên tắc khả năng sinh lời cuả đất
Các nhà kinh tế chia các yếu tố sản xuất ra làm 4 nhóm: đất đai, lao động, vốn và quản lý. Nguyên tắc khả năng sinh lời từ đất cho rằng phần thu nhập còn lại sau khi trừ các khoản chi phí về lao động, vốn và quản lý là thuộc về đất đai. Nguyên tắc khả năng sinh lời từ đất nhấn mạnh đến đặc tính “độc nhất vô nhị” về vị trí của thửa đất trong sản xuất kinh doanh, nguyên tắc này giúp cho việc giải thích tại sao giá trị của đất lại có thể thay đổi một cách mạnh mẽ theo các vị trí.

Một số phương pháp thường được sử dụng để xác định giá trị môi trường

Một số phương pháp thường được sử dụng để xác định giá trị môi trường

Để định giá các giá trị môi trường, các nhà kinh tế sử dụng phương pháp sơ cấp và thứ cấp. Phương pháp sơ cấp cần phải có sự thu thập và xử lý số liệu dựa trên các mô hình. Phương pháp này bao gồm:Phương pháp chi phí y tế, phương pháp đánh giá hưởng thụ, phương pháp đánh giá ngẫu nhiên, phương pháp chi phí du lịch,…Phương pháp thứ cấp dựa vào kết quả nghiên cứu từ phương pháp sơ cấp, xác định hoặc hiệu chỉnh hoặc thay đổi các thông số từ kết quả nghiên cứu. Phương pháp này cóPhương pháp chuyển giao giá trị
1. Phương pháp định giá sơ cấp
Cơ sở để định giá chính là giá trị sẵn lòng chi trả (WTP- Willing to pay) của cá nhân cho những thiệt hại môi trường, để ngăn chặn thiệt hại môi trường hoặc những lợi ích môi trường nhận được
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể được sử dụng trong đánh giá kinh tế các tác động môi trường. Các phương pháp có thể được phân nhóm thành hai phạm trù khái quát như sau: (theo Turner, Pearce, and Bateman, 1994)
* Các phương pháp không dùng đường cầu
Phương pháp này không thể cung cấp nhưng thông tin đánh giá và các đo lường phúc lợi “thực”. Tuy nhiên, phương pháp này là công cụ hữu ích để thẩm định chi phí, lợi ích của các dựa án, chính sách.
– Phương pháp thay đổi năng suất (Changes in Productivity): được sử dụng khi có những thay đổi sản lượng do tác động của môi trường để xác định giá trị kinh tế của sự thay đổi (ví dụ: giảm sản lượng mùa vụ hay năng suất đánh bắt cá) Nếu tác động môi trường có ảnh hưởng bất lợi tới sản lượng, giá trị sản lượng giảm là chi phí đối với xã hội. Ngược lại, nếu tác động môi trường có ảnh hưởng tích cực tới sản lượng (ví dụ, hạn chế xói mòn đất hay cải thiện chất lượng nước) thì giá trị sản lượng tăng là lợi ích cho xã hội. Phương pháp này được tiến hành như sau: thiết lập mối tương quan giữa các tác động môi trường và mức thay đổi về sản lượng. Mối tương quan này này được gọi là hàm phản ứng theo liều lượng (dose-response function). Hàm phản ứng theo liều lượng thiết lập mối quan hệ giữa thay đổi về chất lượng môi trường và ảnh hưởng của nó tới sản lượng. Ví dụ, hàm phản ứng theo liều lượng có thể cho thấy với 1% lớp đất trên cùng bị mất đi, sản lượng sẽ giảm 5%/ha; hay hàm phản ứng theo liều lượng có thể thiết lập mối tương quan giữa ô nhiễm nước với sản lượng cá, giữa mức lắng đọng trầm tích trong hồ chứa nước với sản lượng điện. Khi mức thay đổi về sản lượng đã được xác định, sử dụng giá thị trường đã có sự hiệu chỉnh (giá bóng/giá mờ – shadow price) (giá có sự điều chỉnh với thuế, trợ cấp,…nếu có) được sử dụng để ước tính giá trị kinh tế của sự thay đổi về sản lượng đó.Phương pháp thay đổi năng suất có thể áp dụng trong trường hợp tương quan giữa các tác động môi trường và năng suất có thể xác định được. Phương pháp này có ưu điểm là có thể xác định được trực tiếp giá trị kinh tế của sự thay đổi, dựa trên giá và các mức sản lượng có thể quan sát được ở trên thị trường.
Một khó khăn lớn nhất của phương pháp này là việc xác định mối tương quan này. Lý do ở chỗ: Năng suất không chỉ phụ thuộc vào chất lượng môi trường hay khối lượng tài nguyên, mà còn phụ thuộc vào nhiều biến số khác. Ví dụ, lượng mưa, kỹ thuật canh tác, phân bón, giống,… Do đó, có thể sẽ không dễ dàng khi thiết lập mối quan hệ giữa môi trường và năng suất trong mọi tình huống.
Tuy nhiên, nếu đã xác định được hàm phản ứng theo liều lượng (ví dụ, xác định hàm này bằng cách kế thừa kết quả từ các nghiên cứu có trước) thì phương pháp thay đổi năng suất có thể cho ta các kết quả đánh giá kinh tế hợp lý với chi phí và thời gian tối thiểu.
– Phương pháp chi phí thay thế (Substitue Cost Method): khi con người chịu tác động bất lợi trực tiếp từ việc chất lượng môi trường bị suy giảm, con người sử dụng một số biện pháp nhằm loại bỏ những tác động bất lợi đó.

Ví dụ, trong trường hợp ô nhiễm tiếng ồn, dân cư hai bên đường cao tốc có thể lắp kính cách âm để làm giảm tiếng ồn. Từ đó, người ta tìm ra một phương pháp để đánh giá kinh tế đối với tác động môi trường phát sinh do ô nhiễm tiếng ồn. Phương pháp này có thể thực hiện đơn giản bằng cách đánh giá xem cần phải bao nhiêu chi phí để duy trì sự yên tĩnh. Phương pháp này được thực hiện như sau: Ban đầu, ước tính số lượng các yếu tố đầu vào cần thiết được sử dụng để bù đắp ảnh hưởng của các tác động môi trường. Sau đó, xác định giá thị trường đã được hiệu chỉnh của các yếu tố đầu vào đó (tức là giá sau khi đã loại trừ các khoản trợ cấp và thuế,… nếu có). Tiếp theo, xác định tỷ lệ thay thế kỹ thuật giữa chất lượng môi trường với hàng hoá thay thế. Và cuối cùng là ước tính giá trị của hàng hoá môi trường
Phương pháp này có thể áp dụng trong một một số tình huống như: tác động của ô nhiễm không khí có ảnh hưởng tới cơ sở hạ tầng như cầu đường và nhà cửa. Trong trường hợp ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng, nhà cửa và cầu đường cần phải được bảo trì và sửa chữa thường xuyên hơn. Chi phí cho việc bảo trì và sửa chữa là một phần trong đánh giá kinh tế đối với ô nhiễm không khí.
– Phương pháp chi phí phòng ngừa(Preventive Cost Method): trong nhiều trường hợp, người ta phải bỏ nhiều tiền để tránh các thiệt hại có thể nhìn thấy được. Ví dụ, uống nước đóng chai, mua bình lọc nước để tránh mắc bệnh kiết lị; người nông dân ở vùng đất thấp chịu phí tổn để tránh xói mòn làm thiệt hại mùa màng. Khi con người sẵn lòng trả tiền nhằm chống lại những ảnh hưởng có thể xảy ra khi môi trường suy thoái, những chi phí này có thể được sử dụng làm cơ sở tính toán các phí tổn do ảnh hưởng môi trường gây ra. Các chi phí phòng ngừa thường là chỉ số chi phí nhỏ hơn chi phí thực (nếu xảy ra), vì các chi phòng ngừa bao giờ cũng bị hạn chế bởi mức thu nhập
– Phương pháp chi phí y tế(Cost of illness) Trong nhiều trường hợp, thay đổi về chất lượng môi trường có ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người, ảnh hưởng này có thể dẫn tới những hậu quả làm phát sinh chi phí. Các chi phí mà cá nhân bị ảnh hưởng phải chịu như chi phí y tế, chi phí chăm sóc sức khoẻ, chi phí do nghỉ việc, năng suất lao động giảm trong những ngày ốm. Khi các cá nhân phải trả tiền viện phí, tiền thuốc và các khoản chi phí khác để chữa bệnh, các khoản chi phí này có thể được sử dụng làm cơ sở ước tính ảnh hưởng bất lợi về tình trạng sức khoẻ do sự suy giảm chất lượng môi trường gây ra.
Cũng giống như đối với phương pháp thay đổi năng suất, phương pháp này đòi hỏi việc xác lập mối tương quan giữa tác động môi trường và thay đổi tình trạng sức khỏe. Mối tương quan này cũng được gọi là hàm phản ứng theo liều lượng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hàm đó thiết lập mối quan hệ giữa chất lượng môi trường và mức độ phát sinh bệnh tật. Ví dụ, số lượng mắc bệnh hen suyễn do chất lượng không khí xấu gây ra, hay số lượng mắc bệnh đường ruột do không được sử dụng nước sạch. Tiếp theo là ước tính chi phí phát sinh do sức khoẻ bị ảnh hưởng xấu bởi những thay đổi trong môi trường.
* Nhóm các phương pháp dùng đường cầu
– Phương pháp đo lường mức thoả dụng(Hedonic Pricing Method): Phương pháp này cho biết, giá của một số mặt hàng (ví dụ, tài sản, nhà cửa bay bất động sản khác) có thể bị ảnh hưởng bởi chất lượng môi trường. Một khu đất ở bãi rác sẽ có giá thấp hơn khu đất không có bãi rác gần đó. Tương tự, giá nhà có thể bị ảnh hưởng bất lợi bởi ô nhiễm không khí. Trong trường hợp này, sự khác nhau giữa giá các ngôi nhà bị ô nhiễm và ngôi nhà không bị ô nhiễm không khí có thể được lấy làm cơ sở để đánh giá kinh tế đối với tác động của ô nhiễm không khí.
Phương pháp chi phí du lịch(Travel Cost Method):
Phương pháp này được sử dụng thường xuyên nhất khi tiến hành đánh giá kinh tế các địa điểm thường được du khách tới thăm (công viên, khu bảo tồn thiên nhiên, bãi biển,…). Trong những trường hợp như vậy, giá vé vào cửa để tới thăm khu công viên, khu bảo tồn hay bãi biển không thể là cơ sở đúng để đánh giá việc du khách có sẵn lòng chi trả đển thăm công viên, khu bảo tồn hay bãi biển đó hay không vì giá vé này thường rất rẻ. Tuy nhiên, có thể áp dụng tổng số chi phí mà người du lịch sẵn sàng trả cho cả chuyến du lịch để được tới công viên, khu bảo tồn hay bãi biển làm cơ sở cho việc đánh giá. Phương pháp này đòi hỏi phải có điều tra quy mô rộng và có những phân tích thống kê phức tạp
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên(Contingent Value Method). Phương pháp này cũng được thực hiện bằng cách điều tra, lập phiếu câu hỏi để xem xét thái độ của người dân phản ứng ra sao khi chất lượng môi trường thay đổi và thăm dò xem họ sẵn sàng trả bao nhiêu để tránh việc chất lượng môi trường bị suy giảm. Phương pháp này cũng đòi hỏi phải tiến hành các cuộc điều tra, khảo sát và những phân tích thống kê phức tạp.
Trong các phương pháp liệt kê ở trên, sự phức tạp của các phương pháp tăng dần. Các phương pháp không sự dụng đường cầu áp dụng đơn giản hơn, các phương pháp sử dụng đường cầu phức tạp hơn. Chẳn hạn,Phương pháp thay đổi năng suấtáp dụng khá dễ dàng và được sử dụng để đánh giá kinh tế đối với những ảnh hưởng làm giảm năng suất do tác động môi trường bất lợi (ví dụ, ô nhiễm nước, không khí hay xói mòn đất) Ngoài ra, có các phương pháp khác nhưPhương pháp chi phí y tế, Phương pháp chi phí thay thế,…cũng là những phương pháp thường được áp dụng, vì không khó lắm về mặt kỹ thuật. Phương pháp khác khó hơn, khá phức tạp, là phương pháp đánh giá ngẫu nhiên, chỉ nên áp dụng khi có đủ năng lực chuyên môn.
Ngoài các phương pháp được liệt kê ở trên còn một số các phương pháp khác cũng được sử dụng để đánh giá kinh tế các tác động môi trường nhưPhương pháp vốn nhân lực,Phương pháp chi phí cơ hội, Phương pháp tính thiệt hại về thu nhập, Mô hình lựa chọn,…
2. Phương pháp định giá thứ cấp
Phương pháp chuyển giao giá trị/lợi ích (Benefit/Value Transfer Method): Chuyển giá trị được định giá từ một nghiên cứu đã thực hiên ở một nơi nào đó (study site) đến một địa điểm khác (policy site). Do cần có kết quả thông tin định giá và do thời gian và sự hạn chế về nguồn lực không thể thực hiện được việc định giá. Có ba cách để thực hiện việc chuyển giao giá trị
– Chuyển giao giá trị WTP trung bình (lấy kết quả được định giá từ điểm nghiên cứu)
– Chuyển giao các giá trị WTP hiệu chỉnh (đã điều chỉnh kết quả định giá từ điểm nghiên cứu do sự khác nhau về thu nhập, giáo dục,…)
– Chuyển giao hàm số (lấy hàm số đã ước lượng được từ điểm nghiên cứu hoặc hàm số chung thu được từ kết quả ước lượng các hàm số của các điểm nghiên cứu khác nhau)
Có nhiều cách khác nhau phân loại các phương pháp, ngoài cách phân loại ở trên, đây là cách phân loại khác
Nhóm phương pháp dựa trên hành vi có thực: phương pháp dựa trực tiếp vào hành vi thực tế của người tiêu dùng hoặc người sản xuất (phương pháp chi phí y tế, phương pháp thay đổi sản lượng, phương pháp chi phí du lịch) và Nhóm phương pháp dựa vào hành vi giả định: phương pháp dựa vào hành vi được giả định và thông tin thu được qua điều tra (vì không thể quan sát được thực tế) (phương pháp đánh giá ngẫu nhiên, mô hình lựa chọn) Ví dụ, cán bộ kế hoạch tại một địa phương nào đó phải quyết định xem có nên đầu hay đầu tư bao nhiêu vào hệ thống đường cung cấp nước. Để làm được việc này, họ phải sử dụng bảng hỏi/phiếu điều tra để thu thập thông tin liên quan đến sở thích của người dân về nước sạch. Sử dụng các phương pháp để thực hiện cách tiếp này khó hơn nhiều so với phương pháp áp dụng cách tiếp cận dựa trên các lựa chọn có thực.
Tất cả các giá trị phi sử dụng chỉ có thể được đánh giá không qua phiếu điều tra nhằm thu thập thập thông tin từ cá nhân. Do đó, việc đánh giá tác động đối với các giá trị phi dụng của môi trường là việc làm rất khó.