Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 2 2023

Những chiêu trò trên thị trường dịch vụ thẩm định giá

Chào giá quá thấp, giảm giá dịch vụ, thậm chí chấp nhận lỗ và những thỏa thuận ngầm về tỷ lệ chiết khấu “hoa hồng”… là những chiêu trò đang thị hành trên thị trường thẩm định giá…

Đến nay Bộ Tài chính cũng đã cấp 2.352 thẻ thẩm định viên về giá
Đến nay Bộ Tài chính cũng đã cấp 2.352 thẻ thẩm định viên về giá

Đó là lí do đòi hỏi Bộ Tài chính cần có những quy định nhằm kiểm soát chặt hơn nữa thị trường cung cấp dịch vụ thẩm định giá, một loại hình kinh doanh có điều kiện với quy mô thị trường có 409 doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay.

NÓI XẤU, PHÁ GIÁ LẪN NHAU

Tại một Hội nghị về hoạt động thẩm định giá do Bộ Tài chính tổ chức mới đây, ông Nguyễn Anh Tuấn – Cục trưởng Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính cho biết, hiện nay cả nước có 409 doanh nghiệp thẩm định giá được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, trong đó có 333 doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.

Đến nay Bộ Tài chính cũng đã cấp 2.352 thẻ thẩm định viên về giá, trong đó có .723 thẩm định viên đang đăng ký hành nghề tại các doanh nghiệp, chiếm trên 73% số thẩm định viên được cấp thẻ.

Cũng theo lời ông Nguyễn Anh Tuấn, thẩm định giá là một hoạt động kinh doanh có điều kiện, kết quả thẩm định giá là một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc có quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật và các bên liên quan xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá đối với tài sản…

Với tính chất như vậy có thể thấy kinh doanh thẩm định giá là một loại hình dịch vụ tài chính phức tạp, có ảnh hưởng lớn đến nhiều hoạt động kinh tế khác do đó đòi hỏi kết quả dịch vụ có độ tin cậy và đảm bảo tính khách quan, trung thực…

Hội Thẩm định giá Việt Nam nhận định, trên thị trường đang xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, tung tin thất thiệt về giá dịch vụ của doanh nghiệp khác nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, hạ giá giá dịch vụ thấp bất hợp lý…

Tuy đòi hỏi tính trung thực của loại hình dịch vụ này cao nhưng thực tế quản lý thời gian qua cho thấy hoạt động thẩm định giá đang tổn tại hiện tượng tiêu cực. Đặc biệt là xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh bằng cách hạ thấp giá dịch vụ để lấy khách hàng…

Khi giá dịch vụ thấp sẽ kéo theo chất lượng dịch vụ thấp, mức độ tin cậy cũng như tính trung thực của kết quả thẩm định giá không cao. Việc này ảnh hưởng đến rất nhiều quan hệ kinh tế khác và kéo theo nhiều hệ luỵ về sau.

Trước đó, Hội Thẩm định giá Việt Nam đã từng đưa ra nhận định, trên thị trường đang xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Điển hình là việc cung ứng dịch vụ thẩm định giá với mức giá thỏa thuận đi kèm với cung ứng một loại dịch vụ tư vấn khác không thu tiền. Hay tình trạng tung tin thất thiệt về giá dịch vụ của doanh nghiệp khác nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình…

Thường xuyên diễn ra nhất là tình trạng hạ giá giá dịch vụ thấp bất hợp lý, thấp hơn chi phí bỏ ra và để đảm bảo không bị lỗ nhiều doanh nghiệp thẩm định giá đã bỏ bớt đi nhiều công đoạn, thủ tục trong quy trình thẩm định giá. Nếu có thực hiện đủ quy trình thì lại không bảo đảm các nguyên tắc của thẩm định giá là độc lập, khách quan, trung thực…

Một số doanh nghiệp thẩm định giá có điểm đánh giá chất lượng thấp, cá biệt còn những doanh nghiệp có điểm đánh giá chất lượng thẩm định giá dưới 50 điểm…

Tất cả những điều này dẫn đến chất lượng dịch vụ thấp, gây thiệt hại đến lợi ích của các thành tố tham gia thị trường.

KIỂM SOÁT CHẶT CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ

“Thẩm định giá là hoạt động kinh doanh có điều kiện đang được quan tâm nhiều, do đó những năm vừa qua Bộ Tài chính luôn quan tâm đến việc bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện thể chế và khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động thẩm định giá phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Bộ Tài chính cũng tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định giá… Trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng cường giám sát, nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thẩm định giá… ” ông Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh.

Trước đó, khi bàn về tương lai của dịch vụ thẩm định giá ThS. Trần Đình Thắng – Khoa Thẩm định giá, Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh cho biết, trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với loại hình dịch vụ này.

Theo đó, trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tôn trọng nguyên tắc độc lập, khách quan, trung thực trong hành nghề của thẩm định viên nhưung phải rà soát, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện khung khổ pháp lý về thẩm định giá phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, cũng cần tăng cường kiểm soát hoạt động của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam.

Nghị định số 12/2021/NĐ-CP sẽ giúp tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thẩm định giá đối với doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá. Nghị định đã bổ sung các chế tài và điều kiện đủ mạnh nhằm siết chặt quản lý, chấn chỉnh hoạt động thẩm định giá của các doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên, đồng thời bảo đảm hệ thống pháp luật về thẩm định giá đồng bộ với quy định của pháp luật có liên quan, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Đặc biệt, tiếp tục theo dõi, công bố kết quả đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định giá của các doanh nghiệp thẩm định giá. Tiếp tục xếp hạng kết quả đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định giá của các doanh nghiệp thẩm định giá để các doanh nghiệp nỗ lực cải thiện chất lượng dịch vụ của mình, hướng đến một thị trường dịch vụ thẩm định giá trung thực, khách quan và tin cậy.

Ông Nguyễn Anh Tuấn cho biết, từ ngày 1/5/2021, Nghị định số 12/2021/NĐ-CP ngày 24/2/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá chính thức có hiệu lực thi hành.

Trong Nghị định 12 có quy định đáng chú ý là nghĩa vụ ký Báo cáo kết quả thẩm định giá, Chứng thư thẩm định giá của thẩm định viên về giá hành nghề. Theo đó, thẩm định viên về giá hành nghề phải ký ít nhất 10 bộ Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá trong năm được thông báo hành nghề.

Đến hết ngày 15/12 của năm hành nghề, thẩm định viên về giá đã hành nghề từ 6 tháng trong năm trở lên không ký đủ 10 bộ Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá trong năm thì không được đăng ký hành nghề trong năm liền kề tiếp theo.

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, quy định này nhằm quản lý chặt chẽ các thẩm định viên hành nghề, buộc các thẩm định viên đã đăng ký hành nghề phải làm việc thực sự tại doanh nghiệp. Từ đó sẽ phần nào ngăn chặn tình trạng cho thuê hoặc cho mượn Thẻ thẩm định viên về giá. Về phía doanh nghiệp thẩm định giá, sẽ loại bỏ được các doanh nghiệp yếu kém với quy định nếu trong một năm phát hành được quá ít Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá phải tạm ngừng hoạt động.

Kỳ vọng chặn đường vi phạm trong thẩm định giá, cớ sao Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) gây tranh cãi?

Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) đề xuất hàng loạt điểm mới trọng yếu trong dịch vụ thẩm định giá nhằm hướng tới phát triển nghề thẩm định giá ngày càng chuyên nghiệp, minh bạch hơn, tránh những “vết xe đổ” thời gian qua. Tuy nhiên, nhiều quy định đang vấp phải ý kiến trái chiều…

Quy định về vốn điều lệ tối thiểu và tỷ lệ vốn góp của thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ, vấp phải sự phản đối.
Quy định về vốn điều lệ tối thiểu và tỷ lệ vốn góp của thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ, vấp phải sự phản đối.

Nhằm kiện toàn và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ thẩm định giá, góp phần hạn chế tiêu cực trong quản lý và sử dụng tài sản, tránh lãng phí nguồn lực của xã hội, cũng như bảo đảm tính tương đồng đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính tương tự, Bộ Tài chính đang tích cực lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Luật Giá.

TÁCH BIỆT HAI LĨNH VỰC XOÁ TÌNH TRẠNG THẨM ĐỊNH VIÊN “BIẾT TUỐT”

Tại Dự thảo sửa đổi Luật Giá, nhiều điểm mới được dự kiến bổ sung như: tiêu chuẩn đối với thẩm định viên về giá theo hướng chuyên môn hóa lĩnh vực tài sản thẩm định giá; tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; luật hóa nhiều điều kiện, nâng cao tiêu chí với người đứng đầu doanh nghiệp…

Một điểm nổi bật tại dự thảo lần này là bổ sung thêm quy định mới về thẻ thẩm định viên về giá theo hướng:

“1. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp cấp cho người đạt yêu cầu tại kỳ thi thẩm định viên về giá.

2. Người tham dự kỳ thi thẩm định viên về giá phải có đủ các điều kiện sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các nhóm ngành về kinh tế, kỹ thuật, luật theo quy định của pháp luật;
c) Có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá do cơ quan, tổ chức có chức năng đào tạo về thẩm định giá cấp, trừ trường hợp có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá.

3. Bộ Tài chính quy định về thi, cấp, quản lý, thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá”.

Lý giải về đề xuất mới này, ông Phạm Văn Bình, Trưởng phòng Quản lý thẩm định giá, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), cho hay về Thẻ thẩm định viên về giá tại dự thảo Luật Giá, ngoài các nội dung kế thừa như quy định hiện hành thì được củng cố theo hướng chuyên môn hóa hoạt động của thẩm định viên theo lĩnh vực tài sản.

Cụ thể,một là, thẩm định giá tài sản thông thường như bất động sản, máy móc, thiết bị và các hàng hóa, dịch vụ thông thường.

Hai là,thẩm định giá doanh nghiệp như thẩm định giá doanh nghiệp, tài sản tài chính, tài sản vô hình…gắn với thẩm định viên có nghiệp vụ chuyên sâu về phân tích tài chính.

Để được cấp thẻ, theo quy định hiện hành, mỗi người phải thi đủ các môn, gồm cả những môn về thẩm định giá doanh nghiệp. Tuy nhiên, thống kê cho thấy chỉ số lượng ít ỏi thẩm định viên, khoảng 20-30% làm về giá trị doanh nghiệp. Về nguyên tắc, một người “biết tuốt” sẽ gây lo ngại về sự chuyên sâu trong từng lĩnh vực.

Vì vậy, đúc rút từ thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định mới về Thẻ thẩm định viên về giá, áp dụng với những thẩm định viên đăng ký mới. Đây là một “mũi tên trúng nhiều đích”.

Đại diện Cục Quản lý giá phân tích, nhờ việc chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực sẽ giúp thẩm định viên chuyên sâu hơn về chuyên môn, từ đó, nâng cao chất lượng. Đặc biệt sẽ giảm lãng phí nguồn lực xã hội và rút ngắn thời gian đào tạo đến tận khi hành nghề.

Bởi nếu chỉ hướng đến thẩm định giá tài sản thông thường, thẩm định viên chỉ thi những môn học chuyên về loại tài sản đó như bất động sản, máy thiết bị mà không phải học, thi dàn trải. Hơn nữa, trong thời gian hành nghề sau này, thẩm định viên chỉ cần cập nhật lĩnh vực liên quan, gói gọn trong lĩnh vực tài sản đó.

Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định mới về Thẻ thẩm định viên về giá, áp dụng với những thẩm định viên đăng ký mới. Đề xuất này lúc đầu tưởng chừng sẽ gây khó khăn, phức tạp và gây nhiều phiền hà nhưng thực chất là tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho thẩm định viên và doanh nghiệp.

Điều đáng lưu ý, trong quy định chuyển tiếp, thẻ thẩm định viên về giá được cấp trước ngày Luật Giá (sửa đổi) có hiệu lực vẫn được công nhận; thẩm định viên về giá (có thẻ) không mất quyền lợi gì mà vẫn hành nghề thẩm định giá với mọi loại tài sản, gồm cả thẩm định giá đất, thẩm định giá doanh nghiệp…

Cùng với đó, để khắc phục nhầm lẫn khi coi người có “Thẻ thẩm định viên” về giá đồng thời là “Thẩm định viên về giá”, tại dự thảo Luật Giá quy định ‘Thẩm định viên về giá” phải là những người có “Thẻ thẩm định viên” và đang hành nghề thẩm định giá.

Điều kiện để đăng ký hành nghề phải là người có “Thẻ thẩm định viên” về giá có kinh nghiệm 36 tháng làm việc thực tế tại doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá; có giấy chứng nhận cập nhật kiến thức về thẩm định giá theo lĩnh vực chuyên môn trừ trường hợp Thẻ thẩm định viên về giá được cấp dưới 1 năm tính đến thời điểm đăng ký hành nghề. Như vậy, cùng với việc tách biệt hai loại hình thẻ sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá.

Nhằm quản lý chặt chẽ hơn đối với các “Thẩm định viên về giá”, dự thảo cũng quy định về những điều cấm đối với “Thẩm định viên về giá”, quy định một số trường hợp xử lý đối với “Thẩm định viên về giá” khi vi phạm pháp luật về thẩm định giá như tước thẻ, thu hồi thẻ thẩm định viên về giá.

Qua đó, tăng cường tính răn đe đối với thẩm định viên và yêu cầu các thẩm định viên không ngừng cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.

NHIỀU ĐỀ XUẤT VẤP PHẢI SỰ PHẢN ĐỐI

Tại Dự thảo sửa đổi Luật Giá, Bộ Tài chính cũng đề xuất bổ sung các điều kiện nhằm siết chặt hoạt động của các doanh nghiệp thẩm định giá, như tại điều luật về cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá như sau:

“1. Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp phải có ít nhất 5 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, đồng thời, phải đáp ứng các điều kiện tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp như sau:

a) Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân; Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh phải đáp ứng yêu cầu quy định.

Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên hợp danh công ty hợp danh phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải có vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ đồng;

b) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần phải có vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ đồng, Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 53 Luật này, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện sau:

Có ít nhất 02 thành viên góp vốn, 02 cổ đông phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp; trường hợp thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện của tổ chức góp vốn phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, tổng phần vốn góp của tổ chức tối đa 35% vốn điều lệ.

Tổng số vốn góp của các thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp…”

Tuy nhiên, quy định này gặp nhiều ý kiến trái chiều từ các đơn vị, doanh nghiệp trong ngành.

Góp ý về đề xuất bổ sung nêu trên, một số cơ quan, đơn vị như Bộ Công Thương, Hội Thẩm định giá Việt Nam và nhiều doanh nghiệp thẩm định giá đều đề nghị không quy định điều kiện về vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ đồng áp dụng đối với doanh nghiệp thẩm định giá. Bởi quy định này chỉ có giá trị hạn chế việc thành lập doanh nghiệp, không tăng cường được chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.

Đồng thời, hoạt động này chủ yếu là cung cấp dịch vụ tư vấn, không thương mại hay sản xuất nên các doanh nghiệp này đều không có nhu cầu sử dụng vốn lớn. Hơn nữa, đối với doanh nghiệp tư nhân, việc quy định vốn điều lệ tối thiểu là không cần thiết vì các doanh nghiệp này chịu trách nhiệm vô hạn đối với các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.

Cùng với đó, các ý kiến cho rằng số lượng thẩm định viên không quyết định đến chất lượng dịch vụ của loại hình doanh nghiệp này mà chủ yếu là trình độ, năng lực cá nhân các thành viên tham gia để cung cấp sản phẩm, dịch vụ.

Cũng theo đại diện Công ty Cổ phần Định giá và Tư vấn đầu tư Quốc tế (Valuinco), thông lệ thế giới cho thấy, đối với các dịch vụ như kiểm toán, luật sư, công chứng, đấu giá và thẩm định giá các dịch vụ không phải là “đối vốn” mà là “đối nhân”.

Người sáng lập và điều hành hoạt động của công ty cần người có kiến thức chuyên môn, chứ không cần vốn để hoạt động. Ngược lại, để vốn pháp định trong công ty không phải “đối vốn” là lãng phí nguồn lực xã hội.

Thay vào đó, để kiểm soát rủi ro nghề nghiệp, có thể quy định mức bảo hiểm tối thiểu hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Doanh nghiệp ký nhiều hợp đồng thì rủi ro càng cao; do đó, trích lập dự phòng rủi ro là hợp quy luật bởi tỷ lệ rủi ro sẽ tương ứng với việc thực hiện. Theo đó, doanh nghiệp này đề xuất cần nâng tỷ lệ trích lên 5% và phải báo cáo thường xuyên với Cục Quản lý giá.

Qua đánh giá sơ bộ, khoảng 90% doanh nghiệp thẩm định giá hiện sẽ bị tác động bởi quy định về vốn pháp định và tỷ lệ vốn góp của thẩm định viên về giá.

Vậy tại sao cơ quan soạn thảo cương quyết giữ quy định về vốn điều lệ tối thiểu và tỷ lệ vốn góp của thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ?

Trao đổi với VnEconomy, đại diện Cục Quản lý giá cho biết quy định vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ đồng đối với các mô hình doanh nghiệp này là cần thiết, quy định này cũng tương đồng với quy định doanh nghiệp kiểm toán phải có vốn pháp định tối thiểu 5 tỷ đồng.

Đáng chú ý, ý tưởng cho đề xuất này phần lớn do lĩnh vực này đòi hỏi chuyên môn, doanh nghiệp nếu bị chi phối, “lọt” quyền điều hành vào tay những cá nhân không phải thẩm định viên về giá sẽ mất kiểm soát về chất lượng dịch vụ và dễ bị tác động làm sai lệch kết quả do chạy theo lợi nhuận.

Quy định vốn điều lệ, tăng số lượng thẩm định viên cũng nhằm siết chặt hơn điều kiện hoạt động các doanh nghiệp thẩm định, tránh tình trạng thành lập số lượng lớn các doanh nghiệp thẩm định giá như vừa qua.

Doanh nghiệp nếu bị chi phối, “lọt” quyền điều hành vào tay những cá nhân không phải thẩm định viên về giá sẽ mất kiểm soát về chất lượng dịch vụ. Quy định vốn tối thiểu 5 tỷ còn có ý nghĩa ràng buộc về trách nhiệm bồi thường nếu sai phạm xảy ra.

“Quy định vốn tối thiểu 5 tỷ còn có ý nghĩa ràng buộc về trách nhiệm bồi thường nếu sai phạm xảy ra, bởi dù doanh nghiệp có mua bảo hiểm hoặc trích dự phòng rủi ro nhưng rất nhỏ”, đại diện Cục Quản lý giá khẳng định.

Bộ Tài chính cũng từng đề xuất bỏ hình thức công ty cổ phần do lo ngại việc chuyển nhượng vốn và việc thay đổi nhân sự cấp cao dễ dàng khi chỉ cần nắm nhiều cổ phần, gây sai lệch trong đường hướng hoạt động.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến phản đối không nên bỏ loại này bởi công ty cổ phần tồn tại từ lâu, trước khi cả Luật Giá năm 2012 được ban hành và có tới gần 50% tổng số doanh nghiệp thẩm định giá đang đủ điều kiện hoạt động thuộc loại hình này. Do đó, trên cơ sở rà soát đánh giá thận trọng, Bộ Tài chính báo cáo lên Chính phủ thống nhất phương án kế thừa như hiện hành…

“Điểm đen” thẩm định giá khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước

“Điểm đen” thẩm định giá khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước - Ảnh 2

Thưa ông, thời gian qua, xuất hiện tình trạng xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa không chính xác, dẫn đến nguy cơ thất thoát tài sản nhà nước, nhiều vụ việc đã bị xử lý hình sự. Vậy, đâu là những lỗ hổng trong thẩm định giá hiện nay?

Khi định giá doanh nghiệp, các chính sách chúng ta đưa ra cũng có nhiều thay đổi, dẫn đến tình trạng Kiểm toán Nhà nước vào làm việc lại thì giá trị doanh nghiệp tăng lên so với thời điểm cổ phần hóa, thoái vốn.

Tiến độ cổ phần hóa chậm trễ nói chung và những bất cập trong khâu thẩm định giá nói riêng do một số nguyên nhân sau.

Thứ nhất,xuất phát từ áp lực của những người thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, họ sợ không bán được nên phải tìm một mức giá phù hợp.

Thứ hai,do các quy định của Nhà nước trong định giá doanh nghiệp, trong đó có xác định giá đất, hiện còn bất cập.

Lỗ hổng lớn nhất hiện nay là những doanh nghiệp nhà nước có đất nhưng trả tiền thuê đất một lần thì tài sản này mới được tính vào giá trị doanh nghiệp. Còn đất thuê trả tiền hàng năm sẽ không được đưa vào tính giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Đây cũng là nguyên nhân lớn nhất khiến các cơ quan kiểm toán vào làm việc thấy giá trị mà cơ quan kiểm toán xác định lại cao hơn nhiều so với giá trị ban đầu.

Những doanh nghiệp thuê đất trả tiền hàng năm không có quyền sử dụng đất nhưng họ có quyền ưu tiên thuê đất hàng năm. Vì vậy, họ hy vọng rằng khi họ nắm quyền chi phối doanh nghiệp thì họ sẽ chuyển mục đích sử dụng đất của doanh nghiệp, có thể thu lời rất lớn…

Kể cả khi doanh nghiệp không xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì với lợi thế kinh doanh, giá trị của nhiều mặt bằng kinh doanh thương mại cũng tăng lên rất nhiều.

Ví dụ như năm 1998, khi thực hiện cổ phần hóa Nhà hàng bánh tôm Hồ Tây (nay là Công ty cổ phần bánh tôm Hồ Tây) thì doanh nghiệp lúc đó chỉ được định giá 850 triệu đồng. Tuy nhiên, những người kinh doanh ở bên ngoài tuyên bố rằng với tài sản đất đai như thế, kể cả mức giá là 10 tỷ đồng họ cũng sẵn sàng mua ngay.

Thứ ba,Nhà nước cổ phần hóa doanh nghiệp nhưng vẫn muốn giữ công ăn việc làm cũng như phúc lợi cho những người lao động trong đơn vị đó. Bởi vậy, ban cổ phần hóa doanh nghiệp hoặc cơ quan có thẩm quyền muốn chia phúc lợi cho người lao động thông qua bán cổ phần ưu đãi nên định giá rẻ…

“Điểm đen” thẩm định giá khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước - Ảnh 3

Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước chia sẻ rằng, khi cổ phần hóa phức tạp nhất là định giá đất, ông lý giải vấn đề này như thế nào?

Hai nhóm tài sản lớn khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thường là đất đai và tài sản có trên đất. Như trên đã đề cập, doanh nghiệp thuê đất trả tiền hàng năm thì không đưa giá đất vào xác định giá trị doanh nghiệp.

Thứ nhất,đối với các doanh nghiệp trả tiền thuê đất một lần, giá trị mảnh đất sẽ được đưa vào định giá doanh nghiệp. Theo Luật Đất đai 2013, khung giá đất công bố thường thấp hơn so với giá thị trường rất nhiều. Theo nghiên cứu của Viện Kinh tế tài chính, trong 5 năm trở lại đây, mức giá đất mà Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố công bố chỉ bằng 20% so với giá thị trường.

Bảng giá mà Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố công bố không thể hiện hết được lợi thế về vị trí của mảnh đất, cũng là một yếu tố tạo nên tạo ra sự chênh lệch giá khá lớn. Ví dụ, ở Hà Nội chỉ công bố bảng giá trên từng con đường, tuy nhiên, giá đất ở vị trí ngã 3, ngã 4 khác xa so với mức giá ở trong hẻm… Đây là điểm yếu trong định giá tài sản doanh nghiệp khi mà chỉ dựa vào bảng giá đất của chính quyền cấp tỉnh, thành phố công bố.

Thứ hai,tài sản có trên đất cũng rất phức tạp. Tài sản có rất nhiều loại, nhà cửa, công trình xây dựng hoặc các máy móc, thiết bị, xe cộ hay những thứ có trong khuôn viên. Theo chính sách nhà nước hiện nay thì tài sản cũng chia thành nhiều nhóm để phân tích, tính toán. Thế nhưng, nhiều loại tài sản mà các công ty thẩm định giá cũng đã không đủ dữ liệu, điều kiện xác định giá chính xác, nên họ chỉ tính ở mức giá vừa phải để bán cổ phần dễ dàng hơn…

Bởi vậy, thời gian gần đây, Nhà nước đã có những cách hướng dẫn linh động hơn. Ngoài định giá thì còn đấu giá, đấu thầu,… làm tăng tính cạnh tranh của đợt bán cổ phần ra công chúng, tăng tính thị trường, giúp bán được doanh nghiệp với mức giá sát giá thị trường nhất.

“Điểm đen” thẩm định giá khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước - Ảnh 4

Vậy, làm thế nào để xác định giá đất được chính xác, tối ưu hóa giá trị tài sản cho Nhà nước, thưa ông?

Hiện nay, để định giá đất được chính xác thì chỉ có thể dùng phương pháp so sánh, nghĩa là phải khảo sát và có cơ sở dữ liệu rất lớn, cập nhật về thông tin thị trường (ví dụ, để xác định giá đất trên một khu phố thì không thể chỉ thu thập thông tin của vài vụ mua bán mà phải có dữ liệu của hàng trăm, hàng ngàn giao dịch… trong nhiều năm). Từ đó, các chuyên gia mới tính toán ra giá đất trong một thời kỳ. Sau đó, tính trượt theo thời gian để dự báo mức giá trong thời gian tới.

Ở các nước, cơ quan thẩm định giá, hiệp hội thẩm định giá của họ đều thực hiện theo cách này, như vậy mới sát thực tế.

Hiện tại, Việt Nam chúng ta sử dụng dữ liệu cũ của bảng giá thời kỳ trước, sau đó tham khảo thêm một số giao dịch. Tuy nhiên, quy mô dữ liệu không được lớn như ở các nước mà chỉ có một vài vụ mua bán, chuyển nhượng. Vì thế, giá đất mà các bên thẩm định giá điều chỉnh khó mà tiệm cận với giá thị trường.

“Điểm đen” thẩm định giá khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước - Ảnh 5

Bộ Tài chính đang xây dựng Dự thảo Luật Giá sửa đổi, có ý kiến cho rằng các công ty thẩm định giá đang được trao quyền năng quá lớn nhưng chế tài quản lý thì chưa mạnh. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Trong nguyên tắc hành nghề thẩm định giá, tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam ban hành, các chuyên gia của Bộ Tài chính cũng nghiên cứu rất kỹ thông lệ của các nước trên thế giới. Hầu hết quy định pháp luật mà các nước áp dụng với nghề thẩm định giá thì đã được tận dụng, kế thừa…

Hệ thống pháp luật của Việt Nam về thẩm định giá cũng đã tiệm cận với thế giới, có rất ít kẽ hở. Những trường hợp sai phạm vừa rồi là can thiệp thô bạo vào quá trình thẩm định giá và đã bị xử lý hình sự.

Theo quy định của pháp luật, trong thời gian chứng thư có hiệu lực 1 năm, nếu cơ quan quản lý, cơ quan điều tra phát hiện ra chứng thư đó sai thì thẩm định viên phải chịu trách nhiệm, kể cả chịu trách nhiệm hình sự.

Do vậy, tôi cho rằng pháp luật đã có đủ khung, bậc để xử phạt những hành vi sai trái trong thẩm định giá.

“Điểm đen” thẩm định giá khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước - Ảnh 6

Hội Thẩm định giá đề xuất quy trình 6 bước thu thập và phân tích thông tin

Hội Thẩm định giá Việt Nam vừa góp ý Dự thảo Thông tư ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá về thu thập và phân tích thông tin tài sản thẩm định giá do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo.

Ảnh minh hoạ.

 

Theo đó, Hội Thẩm định giá Việt Nam đề nghị bổ sung nhiều nội dung liên quan đến yêu cầu thu thập thông tin, quy trình thu thập thông tin, tính pháp lý của thông tin, các phương pháp phân tích thông tin, trách nhiệm của người thu thập và phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá.

Về yêu cầu thu thập thông tin, Hội Thẩm định giá Việt Nam đề xuất thêm một số nội dung: Thông tin thu thập phải phù hợp với yêu cầu thẩm định giá tài sản, có tính hợp pháp, có giá trị sử dụng; thông tin phải chính xác; thông tin phải khách quan, đúng thực tế; thông tin phải có tính hệ thống và tổng hợp; thông tin phải thống nhất, hài hòa, bổ sung cho nhau.

Hội này cũng đề nghị: bỏ cụm từ “đầy đủ” trong Dự thảo vì không có tiêu chí đầy đủ về thông tin để so sánh. Đồng thời, bổ sung thời điểm thu thập thông tin trong quá khứ không quá 2 năm tính đến thời điểm thẩm định giá…

Về quy trình chung của việc thu thập và phân tích thông tin, Hội Thẩm định giá Việt Nam đề xuất 6 bước.

Cụ thể: (1) Xác định mục tiêu thu thập, phân tích thông tin; (2) xây dựng phương pháp thu thập và phân tích thông tin phù hợp với mục tiêu thẩm định giá; (3) tiến hành thu thập thông tin, dữ liệu; (4) kiểm tra chất lượng thông tin, dữ liệu; (5) xử lý, phân tích, làm sạch thông tin, dữ liệu; (6) tổng hợp, đánh giá, lựa chọn thông tin, dữ liệu đưa vào xác định giá trị tài sản.

Theo Hội Thẩm định giá, Dự thảo đã nêu được việc thu thập thông tin được tiến hành từ các thông tin thứ cấp và sơ cấp, nhưng việc sắp xếp còn chưa đúng trình tự của từng nguồn thông tin (kênh thông tin) và cũng còn thiếu một số nguồn cần được xem xét bổ sung.

Trên cơ sở đó, đề xuất sắp xếp như sau đối với thông tin thứ cấp: Là thông tin do khách hàng thẩm định giá cung cấp bằng văn bản; thông tin từ các hồ sơ, tài liệu, văn bản của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương; thông tin từ các cơ sở dữ liệu về thị trường giá cả của các tổ chức có chức năng thiết lập và trên các sàn giao dịch tài sản; thông tin từ sách, báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, cổng thông tin điện tử và trên mạng Internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác.

Thông tin sơ cấp gồm: Thông tin từ kết quả điều tra, khảo sát thực tế hiện trạng tài sản và thị trường của tài sản; thông tin từ kết quả phỏng vấn trực tiếp chủ sở hữu (hoặc chủ sử dụng tài sản), các chủ thể tham gia thị trường liên quan đến tài sản thẩm định giá; người môi giới, cán bộ địa chính, phường, xã.

Hội Thẩm định giá Việt Nam đề xuất Dự thảo cần: Quy định và giải thích rõ về tính pháp lý của thông tin thu thập là thế nào, quy định trách nhiệm, quyền hạn của người thu thập thông tin đến đâu?

Đồng thời, cơ quan soạn thảo nên cân nhắc về việc đòi hỏi có chữ ký của người cung cấp thông tin vì khó khả thi.

Các phương pháp xử lý thông tin được khuyến nghị áp dụng là định tính và định lượng.

Trong đó, phương pháp phân tích, xử lý thông tin định tính: “Là phương pháp tiếp cận tài sản và xác định giá trị tài sản bằng cách thức mô tả, diễn giải, phân tích, lập luận từ các dữ liệu thị trường đã thu thập được nhằm tìm ra được bản chất giá trị của tài sản cần xử lý”.

Phương pháp phân tích, xử lý thông tin định lượng: “Là phương pháp tiếp cận tài sản và xác định giá trị tài sản bằng các phương pháp thích hợp từ những số liệu đã thu thập được từ thị trường”. Cụ thể bao gồm: Phương pháp thống kê (thống kê mô tả, thống kê suy luận); phương pháp phân tích mối quan hệ hồi quy và tương quan; phương pháp phân tích sự khác biệt.

Một số lưu ý về hoạt động thẩm định giá được đưa ra trong dự thảo Luật Giá

Bộ Tài chính đề xuất tăng cường tiêu chuẩn, điều kiện của thẩm định viên về giá, gắn với đó là nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của thẩm định viên trong hoạt động thẩm định giá.

Một số lưu ý về hoạt động thẩm định giá được đưa ra trong dự thảo Luật Giá (sửa đổi)
Ảnh minh họa.

Tại dự thảo Luật Giá (sửa đổi) đang được lấy ý kiến góp ý rộng rãi Bộ Tài chính đề xuất bổ sung một số quy định nhằm xử lý các chồng chéo, vướng mắc trong quản lý thẩm định viên về giá; thực hiện chuyên môn hóa hoạt động nghề nghiệp của thẩm định viên về giá theo năng lực và kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ thẩm định giá để hướng đến tính chuyên nghiệp, chuyên sâu.

Đồng thời tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấpGiấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Bổ sung, hoàn thiện các quy định về giám sát, quản trị doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp được thành lập theo mô hình công ty cổ phần.

Theo đó, vềhoạt động thẩm định giá: Dự thảo Luật sửa đổi quy định về hoạt động thẩm định giá hiện đang được quy định tại Luật giá năm 2012 theo hướng khẳng định hoạt động thẩm định giá bao gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá và thẩm định giá nhà nước, đồng thời nhóm các quy định về tài sản thẩm định giá và giá trị của kết quả thẩm định giá vào trong quy định về hoạt động thẩm định giá để bảo đảm tính thống nhất của điều khoản.

Vềdịch vụ thẩm định giá, dự thảo Luật sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành để củng cố một số tiêu chuẩn đối với thẩm định viên về giá, các điều kiện tiêu chuẩn hành nghề đối với thẩm định viên về giá, tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, nhất là trong quá trình hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá; qua đó, siết chặt quản lý hoạt động thẩm định giá nhằm một mặt đáp ứng yêu cầu đặt ra trong việc củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá, góp phần chống tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực giá; một mặt bảo đảm tính tương đồng đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính tương tự.

Vềthẩm định viên về giá: Dự thảo Luật quy định thẩm định viên về giá là người có Thẻ thẩm định viên về giá đang hành nghề tại doanh nghiệp để thống nhất về mặt nguyên lý đã là thẩm định viên thì người đó phải đang hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá.

VềThẻ thẩm định viên về giá: Dự thảo Luật bổ sung quy định khi tham gia thi cấp thẻ thẩm định viên về giá, người dự thi phải đáp ứng tiêu chuẩn 36 tháng kinh nghiệm là thời gian làm việc thực tế tại doanh nghiệp thẩm định giá. Đồng thời, tại Thẻ thẩm định viên về giá sẽ thể hiện rõ chuyên môn của thẩm định viên theo lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp.

Vềđiều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung điều kiện các thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải có ít nhất 05 thẻ thẩm định viên về giá, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải là người có thẻ thẩm định viên về giá tài sản và doanh nghiệp, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thì tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn, cổ đông là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Quy định vốn pháp định của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là 5 tỷ đồng trở lên.

Vềchi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung điều kiện các thẩm định viên về giá hành nghề tại chi nhánh phải có ít nhất 03 Thẻ thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp và các chi nhánh khác.

Vềđiều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá để củng cố các chế tài xử lý trong trường hợp doanh nghiệp có biến động về thẩm định viên về giá ảnh hưởng đến điều kiện hoạt động.

Vềđánh giá hoạt động dịch vụ thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định về đánh giá hoạt động dịch vụ thẩm định giá nhằm tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua hoạt động phát hiện và ngăn ngừa rủi ro.

Vềcơ chế giải quyết tranh chấpvề kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá trên cơ sở quy định về giải quyết tranh chấp tại nghị định.

Thông báo hành nghề thẩm định giá năm 2023

Theo quy định pháp luật về thẩm định giá, trên cơ sở đề nghị của các doanh nghiệp thẩm định giá và việc rà soát, điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp. Bộ Tài chính ban hành Thông báo số 173/TB-BTC ngày 5/2/2023 thông báo điều chỉnh thông tin về thẩm định viên đăng ký hành nghề năm 2023 tại các doanh nghiệp thẩm định giá được gấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cho 19 thẩm định viên hành nghề tại 14 Doanh nghiệp thẩm định giá.

Trong quá trình hoạt động thẩm định giá, các doanh nghiệp thẩm định giá và các thẩm định viên về giá có trách nhiệm thực hiện đúng những quy định tại Luật giá, các văn bản hướng dẫn có liên quan bà các nội dung ghi trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.

 

[embeddoc url=”/wp-content/uploads/2023/02/Thong-bao-sN-173-1.pdf”]