Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives 2024

Thẩm định giá Động sản

Top 6 cách định giá doanh nghiệp cực chính xác cho CFO, CEO

A. Đối tượng Thẩm định giá:

– Máy thiết bị, công cụ, dụng cụ, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải đường bộ, đường sông, đường biển, …

B. Mục đích thẩm định giá:

– Thẩm định giá cho mục đích thế chấp, bảo hiểm, vay vốn ngân hàng

– Thẩm định giá cho mục đích mua bán, chuyển nhượng

– Thẩm định giá cho mục đích góp vốn liên doanh

– Thẩm định giá cho mục đích phân chia tài sản

– Thẩm định giá cho mục đích thanh lý, bán đấu giá, thi hành án

C. Hồ sơ cung cấp:
1. Dây chuyền máy móc, thiết bị:
– Hợp đồng kinh tế mua bán
– Biên bản thanh lý hợp đồng
– Biên bản bàn giao, nghiệm thu
– Bản vẽ kỹ thuật
– Các hoá đơn mua bán kê khai chi tiết
– Catalogue….

2. Phương tiện vận chuyển:
+ Đối với xe:
– Giấy chứng nhận đăng ký xe
– Giấy chứng nhận bảo hiểm xe cơ giới
– Sổ chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ

+ Đối với tàu:
– Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện thủy nội địa
– Biên bản kiểm tra kỹ thuật phương tiện thuỷ nội địa
– Sổ kiểm tra kỹ thuật phương tiện thuỷ nội địa
– Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật phương tiện thuỷ nội địa
– Giấy chứng nhận cấp tàu
– Giấy chứng nhận mạn khô quốc tế
– Giấy chứng nhận ngăn ngừa ô nhiễm do dầu gây ra
– Giấy chứng nhận quốc tế về an ninh tàu biển
– Hồ sơ thiết kế, bản vẽ….
– Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng…
– Hóa đơn, chứng từ liên quan,..

3. Trạm xăng dầu:
– Biên bản kiểm tra kỹ thuật bồn chứa
– Giấy CN đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu
– Giấy CN đủ tiêu chuẩn, điều kiện về PCCC
– Giấy CN kiểm định ATKT
– Dây chuyền máy móc thiết bị:
– Danh mục tài sản yêu cầu thẩm định giá
– Bản vẽ TK
– Quy trình sản xuất của dây chuyền
– Invoice/ Packing List (máy móc thiết bị nhập khẩu)
– Biên bản bàn giao, nghiệm thu lắp đặt
– Bản vẽ chi tiết móng, máy (nếu có)

4. Tài sản mua sắm mới:

– Tờ trình dự toán mua sắm tài sản được phê duyệt
– Hóa đơn chứng từ (trường hợp bán thanh lý)
– Catalogue (nếu có)

5. Tài sản nhập khẩu:
– Hợp đồng thương mại
– INVOICE
– PACKINGLIST
– Tờ khai hải quan
– Giấy chứng nhận xuất xứ
– Giấy giám định chất lượng
– Hoá đơn mua bán kê khai chi tiết…

Phạm vi công việc thẩm định giá

Hồ sơ thẩm định giá được lưu trữ tối thiểu 10 năm
Ngày 16/5/2024, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 30/2024/TT-BTC ban hành các chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về quy tắc đạo đức nghề nghiệp thẩm định giá, phạm vi công việc thẩm định giá, cơ sở giá trị thẩm định giá, hồ sơ thẩm định giá.

Về nội dung phạm vi công việc thẩm định giá

1. Người thực hiện hoạt động thẩm định giá được trao đổi với bên yêu cầu thẩm định giá về các công việc liên quan đến cuộc thẩm định giá nhưng phải bảo đảm không vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực giá, thẩm định giá quy định tại Điều 7 của Luật Giá.

2. Lập kế hoạch thẩm định giá

– Người thực hiện hoạt động thẩm định giá có quyền lập hoặc không lập kế hoạch thẩm định giá và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình;

– Nội dung kế hoạch thẩm định giá bao gồm các nội dung cơ bản sau: Tên những người tham gia thực hiện cuộc thẩm định giá; Dự kiến các công việc thực hiện và thời gian thực hiện; Nội dung công việc cần thuê chuyên gia tư vấn (nếu có).

3. Thu thập thông tin về tài sản thẩm định giá, thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định giá; thực hiện phân tích thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định giá theo quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thu thập và phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá.

4. Căn cứ đặc điểm tài sản thẩm định giá và thông tin thu thập được, tiến hành lựa chọn và áp dụng phương pháp thẩm định giá phù hợp theo quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam.

5. Xác định giá trị của tài sản thẩm định giá.

6. Lập và phát hành báo cáo thẩm định giá, chứng thư thẩm định giá đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá; lập báo cáo thẩm định giá, thông báo kết quả thẩm định giá đối với hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.

Trước khi phát hành chứng thư thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc báo cáo thẩm định giá, thông báo kết quả thẩm định giá đối với hoạt động thẩm định giá của Nhà nước:

– Các nội dung phải trao đổi và thống nhất với bên yêu cầu thẩm định giá gồm: Tên, đặc điểm kinh tế, kỹ thuật cơ bản, hiện trạng của tài sản thẩm định giá; mục đích thẩm định giá; thời điểm thẩm định giá; bên sử dụng chứng thư thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá hoặc bên sử dụng thông báo kết quả thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá; giả thiết (nếu có), giả thiết đặc biệt (nếu có); hồ sơ tài liệu mà bên yêu cầu thẩm định giá cần cung cấp;

– Các nội dung phải thông báo với bên yêu cầu thẩm định giá gồm: cơ sở giá trị thẩm định giá; hạn chế và loại trừ trách nhiệm.

Về yêu cầu khi áp dụng phương pháp thẩm định giá

1. Căn cứ các cách tiếp cận thẩm định giá quy định tại các chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành, thẩm định viên phân tích và lựa chọn các phương pháp thẩm định giá phù hợp với mục đích thẩm định giá, cơ sở giá trị của tài sản, mức độ sẵn có của các dữ liệu, thông tin để áp dụng các phương pháp thẩm định giá và phù hợp với các quy định của pháp luật liên quan (nếu có).

2. Phải áp dụng ít nhất 02 (hai) phương pháp thẩm định giá khi thực hiện thẩm định giá một tài sản thẩm định giá trừ các trường hợp sau:

– Đủ điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh theo quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về Cách tiếp cận từ thị trường;

– Thẩm định giá tài sản vô hình theo quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về Thẩm định giá tài sản vô hình;

– Không có đầy đủ thông tin để áp dụng từ 02 (hai) phương pháp thẩm định giá trở lên. Trường hợp này phải có phân tích, biện luận cho việc không có đủ thông tin để áp dụng từ 02 (hai) phương pháp thẩm định giá trở lên.

3. Khi áp dụng từ 02 phương pháp thẩm định giá trở lên, việc xác định giá trị tài sản thẩm định giá phải thực hiện như sau:

– Xác định giá trị tài sản thẩm định giá theo từng phương pháp thẩm định giá;

– Lập luận về việc lựa chọn hoặc nhận định giá trị tài sản thẩm định giá trên cơ sở mục đích thẩm định giá, đặc điểm tài sản thẩm định giá, cơ sở giá trị thẩm định giá, thông tin thu thập được và các yếu tố khác có liên quan đến giá trị tài sản thẩm định giá.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2024. Thông tư số 158/2014/TT-BTC ngày 27/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 01, 02, 03 và 04 và Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 05, 06 và 07 hết hiệu lực kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành./.

Hồng Vân

Thẩm định giá là gì? Kết quả thẩm định giá (Chứng thư thẩm định giá) được sử dụng vào những mục đích nào? Giá trị pháp lý của chúng thư thẩm định giá?

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

1. Thẩm định giá là gì?

Căn cứ theo Điều 4. Luật Giá khái niệm:

“Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.”

“Chứng thư thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá lập để thông báo cho khách hàng và các bên liên quan về những nội dung cơ bản của báo cáo kết quả thẩm định giá”

Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/08/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá quy định“Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật”.

2. Kết quả thẩm định giá (Chứng thư thẩm định giá) được sử dụng vào những mục đích sau:

Theo Điều 32 Luật Giá quy định:

“Điều 32. Kết quả thẩm định giá

1. Kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc có quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật và các bên liên quan xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá đối với tài sản.

2. Việc sử dụng kết quả thẩm định giá phải đúng mục đích ghi trong hợp đồng thẩm định giá hoặc văn bản yêu cầu thẩm định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Kết quả thẩm định giá chỉ được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá.”

3. Giá trị pháp lý của chứng thư thẩm định giá

Theo Điều 32 Luật Giá quy định giá trị pháp lý của chúng thư thẩm định giá cụ thể như sau:

“Điều 32. Kết quả thẩm định giá

1. Kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc có quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật và các bên liên quan xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá đối với tài sản.

2. Việc sử dụng kết quả thẩm định giá phải đúng mục đích ghi trong hợp đồng thẩm định giá hoặc văn bản yêu cầu thẩm định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Kết quả thẩm định giá chỉ được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá”.

Thẩm định giá là gì? Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào?

hẩm định giá là gì? Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào?

Tham vấn bởi Luật sư Nguyễn Thụy Hân

Chuyên viên pháp lýDương Châu Thanh

Xin hỏi giá dịch vụ thẩm định giá hiện nay được tính dựa trên những căn cứ, thỏa thuận nào? – Thùy Trang (Long An)

  • Thẩm định giá là gì?
  • Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào?

Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào? (Hình từ internet)

Thẩm định giá là gì?

Theo khoản 15 Điều 4 Luật Giá 2012 quy định:

Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.

– Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật.

– Khách hàng thẩm định giá là tổ chức, cá nhân thuê doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá hoặc văn bản yêu cầu, đề nghị thẩm định giá.

– Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá là tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật trên cơ sở tham gia tự nguyện của các thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong lĩnh vực thẩm định giá.

– Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam là những quy định về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp thực hành thẩm định giá dùng làm chuẩn mực để phục vụ hoạt động thẩm định giá tài sản, kiểm tra, đánh giá kết quả và chất lượng hoạt động thẩm định giá tại Việt Nam. (Theo Nghị định 89/2013/NĐ-CP)

Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào?

Giá dịch vụ thẩm định giá được quy định tại Điều 11 Nghị định 89/2013/NĐ-CP, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 12/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:

(1) Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá theo quy định tại khoản (2), (3) trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá;

Trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

(2) Các căn cứ xác định giá dịch vụ thẩm định giá:

– Nội dung, khối lượng, tính chất công việc và thời gian thực hiện thẩm định giá;

– Chi phí kinh doanh thực tế hợp lý tương ứng với chất lượng dịch vụ gồm: Chi phí tiền lương, chi phí phát sinh trong quá trình khảo sát, thu thập, phân tích, xử lý thông tin; chi phí tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và các chi phí khác theo quy định của pháp luật;

– Chi phí mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc chi phí trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp;

– Lợi nhuận dự kiến (nếu có) đảm bảo giá dịch vụ thẩm định giá phù hợp mặt bằng giá dịch vụ thẩm định giá tương tự trên thị trường;

– Các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

(3) Căn cứ quy định tại Khoản (2), doanh nghiệp thẩm định giá ban hành và thực hiện niêm yết biểu giá dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp mình theo quy định tại Khoản 6 Điều 4, Khoản 5 Điều 12 Luật Giá bằng hình thức mức giá dịch vụ trọn gói, theo tỷ lệ phần trăm (%) của giá trị tài sản hoặc giá trị dự án cần thẩm định giá và hình thức khác do doanh nghiệp quyết định phù hợp với các quy định của pháp luật.

 

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 nêu ra một số vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện.

Việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là hoạt động diễn ra khá phổ biến trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Đây là hoạt động được thực hiện khi các bên đương sự không có sự thống nhất đối với giá của tài sản tranh chấp và cũng được đánh giá là hoạt động quan trọng, bởi, kết quả của hoạt động này bảo đảm kết quả giải quyết tranh chấp dân sự tương ứng. Do vậy, việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong vụ án dân sự cần được quy định một cách hiệu quả, khách quan và tiến bộ. Điều 104 BLTTDS năm 2015 về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản được đánh giá là có nhiều tiến bộ hơn so với quy định tại Điều 92 BLTTDSnăm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, quy định tại Điều luật này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc.

1. Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản

BLTTDS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, vừa bảo đảm tính kế thừa các quy định tiến bộ của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia tiên tiến trên thế giới, phù hợp với đòi hỏi của xã hội trong tình hình mới. Trong đó, có quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản được ghi nhận tại Điều 104 BLTTDS năm 2015.

Nghiên cứu nội dung Điều luật thì thấy, về cơ bản, quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 có nhiều nội dung được giữ nguyên so với quy định tại Điều 92 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Tuy nhiên, nhà làm luật có sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Điều luật này như sau:

Thứ nhất,về tên gọi của điều luật. Tại Điều 92 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nhà làm luật chỉ ghi nhận tên gọi điều luật là “Định giá tài sản” thì trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2011 tên gọi của Điều luật đã được thay đổi, bổ sung thêm thành “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản” và được giữ nguyên tại Điều 104 BLTTDS năm 2015.

Thứ hai,tại khoản 1 Điều 104 BLTTDS năm 2015 nhà làm luật bổ sung thêm quy định các bên có quyền “cung cấp giá tài sản đang tranh chấp”, ngoài việc quy định “các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản” như trong quy định tại khoản 1 Điều 92 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Đây là sự cụ thể hóa của nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự[1].

Thứ ba,khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định về việc Tòa án được thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp được ghi nhận tại điều khoản này.

Thứ tư,trong Điều 104 BLTTDS năm 2015, nhà làm luật bổ sung thêm khoản 5 ghi nhận việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự. Đây là nội dung lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTDS, bảo đảm tính tiến bộ và sự phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn xét xử, bảo đảm việc giải quyết vụ án chính xác, triệt để và khách quan.

Như vậy, có thể thấy quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của thực tiễn trong việc bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự được khách quan, toàn diện và chính xác.

Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung Điều luật thì thấy nhà làm luật mới chỉ ghi nhận về quyền của các bên đương sự cũng như thẩm quyền của Tòa án trong việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, việc thành lập Hội đồng định giá… mà chưa đưa ra khái niệm thế nào là định giá tài sản và thế nào là thẩm định giá tài sản. Do vậy, trong thực tế, cả về lý luận và thực tiễn còn những quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu về nội dung này.

Có quan điểm cho rằng:“Định giá là quá trình, trong đó một doanh nghiệp đặt giátại mức mà đó họ sẽ bán sản phẩm và dịch vụ của mình và điều này có thể là một phần trong kế hoạch tiếp thị.Trong việc thiết lập giá, doanh nghiệp sẽ tính đến mức giá mà nó có thể thu về được hàng hóa, chi phí sản xuất, thị trườngcạnh tranh, điều kiện thị trường, thương hiệuvà chất lượng sản phẩm”.[2]

Quan điểm khác lại cho rằng, định giá là việc quy định hay ước tính giá trị cho hàng hóa, dịch vụ để phục vụ các mục đích nhất định trong đời sống kinh tế xã hội.[3]

Khoản 11 Điều 4 Luật Giá năm 2023 quy định:“Định giá là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện xác định giá của hàng hóa, dịch vụ”[4].

Có thể thấy, việc định giá trong BLTTDS năm 2015 về cơ bản được xác định theo khái niệm định giá nêu tại khoản 11 Điều 4 Luật Giá năm 2023.

Về khái niệm thẩm định giá tài sản, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng, thẩm định giá tài sản là hoạt động do cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá tiến hành xác định giá trị bằng tiền của tài sản được quy định trong BLDS, phù hợp với giá trị thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định dựa theo tiêu chuẩn thẩm định giá để phục vụ cho mục đích nhất định.[5]

2. Một số tồn tại, hạn chế

2.1. Về mặt kỹ thuật lập pháp

Có thế thấy, xét một cách tổng thể thì BLTTDS năm 2015 được đánh giá là hoàn thiện và có nhiều tiến bộ về mặt kỹ thuật lập pháp, giúp cho việc hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật được thuận lợi, thống nhất hơn, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật[6]. Tuy nhiên, thực quá trình áp dụng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện trong lần pháp điển hóa tiếp theo. Và quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 là một dẫn chứng.

Thứ nhất,tại khoản 1 Điều 104 nhà làm luật bổ sung thêm nội dung các bên có quyền “cung cấp giá tài sản đang tranh chấp”, và giữ nguyên quy định “đương sự có quyền thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp” quy định trong BLTTDS trước đây. Theo đó, điều khoản ghi nhận đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về giá của tài sản đang tranh chấp, đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, xét về mặt kỹ thuật lập pháp thì quy định này chưa thực sự đầy đủ và chính xác. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản Điều 5 BLTTDS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận, tự do ý chí của các bên như sau:“Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.”

Như vậy, việc thỏa thuận của các bên đương sự chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ khi sự thỏa thuận đó là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 104 ghi nhận sự thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp của các bên đương sự nhưng không ghi nhận điều kiện kèm theo khiến cho thực tế tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Theo đó, có quan điểm cho rằng, vì điều luật chỉ ghi nhận các bên được quyền tự do thỏa thuận về giá của tài sản đang tranh chấp, do vậy, khi các bên thống nhất được với nhau thì thỏa thuận đó mặc nhiên được công nhận mà không cần xem xét thỏa thuận đó có trái đạo đức xã hội hay không? (ví dụ: Thỏa thuận đó làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba).

Tác giả cho rằng, trong thực tiễn xét xử, về nguyên tắc chung Tòa án khi xem xét thỏa thuận của các đương sự về giá của tài sản tranh chấp sẽ phải xem xét, đánh giá xem nội dung thỏa thuận đó có là tự nguyện không? Có vi phạm điều cấm của luật hay có trái đạo đức xã hội hay không để đưa ra quyết định chấp nhận hay bác bỏ thỏa thuận đó. Tuy nhiên, rõ ràng với cách ghi nhận tại khoản 1 Điều 104 BLTTDS năm 2015 về quyền thỏa thuận của các bên là chưa đầy đủ, chính xác, chưa bảo đảm yêu cầu trong kỹ luật lập pháp khiến cho nội dung Điều luật thiếu tính nhất quán với các quy định khác của BLTTDS năm 2015 và chưa thực sự phát huy được tính hiệu lực, hiệu quả như nhà làm luật mong muốn.

Thứ hai,về các trường hợp Tòa án ra quyết định định giá tài sản

Khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định:

“Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;

b) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản….”

Nghiên cứu nội dung quy định tại điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 thì thấy quy định có sự chồng chéo, chưa bảo đảm kỹ thuật lập pháp.

Cụ thể, nội dung điều khoản này ghi nhận 03 trường hợp Tòa án sẽ ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá tài sản gồm: (i) các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản; (ii) đưa ra giá tài sản khác nhau; (iii) không thỏa thuận được giá tài sản.

Tuy nhiên, có thể thấy trường hợp (i) và (ii) có khác nhau về câu chữ còn nội hàm thì tương tự nhau, hay nói cách khác, việc các đương sự đưa ra giá tài sản khác nhau cũng giống như việc các đương sự không thỏa thuận được giá tài sản. Do vậy, việc tách thành 02 trường hợp như vậy là không chính xác, gây ra sự chồng chéo, thiếu logic trong quy định của điều khoản.

2.2. Về sự tham gia của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá

Khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định về trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá, định giá tài sản, trong đó ghi nhận:“…Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá…”

Như vậy, trong trường hợp cần thiết thì Tòa án mời đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá tham gia phiên định giá với tư cách là người “chứng kiến việc định giá”. Quy định này là phù hợp và cần thiết, bởi lẽ, chính quyền địa phương là chủ thể có nhiều thông tin liên quan đến tài sản định giá và điều này giúp ích cho Hội đồng định giá trong việc định giá tài sản tranh chấp bảo đảm tính chính xác, hiệu quả.

Tuy nhiên, quy định của điều luật còn khá chung chung khiến cho việc áp dụng trong thực tế mang tính tùy nghi, thiếu sự thống nhất. Cụ thể, điều luật quy định “trong trường hợp cần thiết” nhưng lại không xác định cụ thể trường hợp nào được xác định là cần thiết, dẫn đến việc có những trường hợp có tính chất tương tự nhưng có Tòa án thì mời đại diện Ủy ban nhân dân xã nơi có tài sản định giá tham gia chứng kiến, có Tòa án thì cho rằng không cần thiết nên đã không mời.

Đồng thời, việc “mời” này được thực hiện thông qua cách thức nào cũng chưa được quy định cụ thể, mời bằng giấy mời hay thông báo hay một dạng văn bản nào khác… dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất trong thực tiễn giữa các Tòa án.

Một vấn đề quan trọng nữa là, điều luật chỉ quy định việc mời đại diện Ủy ban nhân dân xã chứng kiến việc định giá chứ không quy định đối tượng cụ thể là ai. Do vậy, cá nhân tham gia chứng kiến việc định giá là thuộc thẩm quyền “cử” của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, và dẫn đến việc tùy nghi, thiếu thống nhất trong việc cử người tham gia, khiến cho việc tham gia này mang nặng tính hình thức. Ví dụ: Cùng có đối tượng định giá là đất ở, nhưng có Ủy ban nhân dân cấp xã cử cán bộ địa chính xã tham gia, có Ủy ban nhân dân cấp xã lại cử cán bộ phụ trách văn hóa tham gia. Việc cử này khó bảo đảm được hiệu quả, hơn nữa, với cách ghi nhận vai trò tham gia của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá chỉ là người chứng kiến mà chưa quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của họ khi tham gia khiến việc tham gia này thường mang tính chiếu lệ, cho có, chứ không bảo đảm thực chất, hiệu quả.

2.3. Về việc thông báo trước cho đương sự

Điểm a khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định:“Các đương sự được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định giá…”

Như vậy, theo quy định tại điều khoản này thì các đương sự sẽ được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá. Đây là quy định tiến bộ và hợp lý, bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Bởi lẽ, các đương sự có quyền tham sự buổi định giá, có quyền phát biểu về việc định giá để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình. Ý kiến của đương sự được ghi vào biên bản định giá được xác định là nguồn của chứng cứ. Tuy nhiên, điều luật chỉ quy định “các đương sự được thông báo trước về thời gian tiến hành định giá” nhưng không có quy định cụ thể thời gian thông báo trước là bao lâu? Điều này dẫn đến nhiều trường hợp gây khó khăn cho đương sự, khiến họ không tham dự được buổi định giá, không được quyền phát biểu ý kiến về việc định giá, dẫn đến không đồng ý kết quả định giá và khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Ví dụ: Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B có tranh chấp đối với mảnh đất ở xã C. Tòa án tiến hành định thành lập Hội đồng định giá đối với mảnh đất này vào ngày 20/6, nhưng đến trưa ngày 19/6 mới phát hành thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành định giá cho B. Lúc này, B đang đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương, khi nhận được thông báo thì không về kịp để tham gia buổi định giá.

Như vậy, rõ ràng là việc quy định chưa cụ thể về thời hạn gửi thông báo cho đương sự về việc định giá dẫn đến thực tiễn áp dụng thiếu thống nhất, một số trường hợp lợi dụng quy định này cố tình gây khó khăn cho đương sự, khiến vụ án dân sự bị khéo dài thời gian giải quyết, gây bức xúc cho người dân, gây mất niềm tin vào cơ quan tiến hành tố tụng, niềm tin vào công lý.

2.4. Về việc định giá lại tài sản

Khoản 5 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định:“Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự”.

Đây là nội dung được ghi nhận trong BLTTDS năm 2015 nhằm đảm bảo việc định giá tài sản được khách quan, chính xác, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các bên khi có căn chứ cho thấy kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nới có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này cũng còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cụ thể:

Căn cứ vào đâu để xác định kết quả định giá lần đầu không chính xác? Chủ thể nào có thẩm quyền cho định giá lại tài sản và căn cứ nào để quyết định việc định giá lại?

Có thể thấy, quy định này được đặt ra là hoàn toàn cần thiết, nhưng do việc quy định chưa cụ thể, rõ ràng khiến cho việc áp dụng trong thực tế gặp nhiều khó khăn. Và đây có thể là nội dung mà một trong các bên đương sự cố tình lợi dụng để kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây khó khăn cho bên đương sự còn lại.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là quy định hết sức quan trọng, bởi lẽ, thực tiễn giải quyết các vụ dân sự, các Thẩm phán thường phải tiếp nhận giải quyết yêu cầu này của các bên đương sự trong quan hệ tranh chấp. Đây cũng là khâu quan trọng giúp việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện để các bên nhanh chóng ổn định sản xuất, ổn định cuộc sống của mình. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định luật về nội dung này là yêu cầu tất yếu, khách quan. Tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị sau đây:

Một là,đối với nội dung Điều 104 BLTTDS năm 2015, tác giả kiến nghị như sau:

Sửa đổi khoản 1 là:“1. Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp. Việc thỏa thuận của đương sự bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật này.”

Về nội dung điểm b khoản 3 Điều 104, tác giả kiến nghị bỏ nội dung “không thỏa thuận được giá tài sản” và nội dung điều khoản này sau khi được sửa đổi lại như sau:“Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau”.

Hai là,về sự tham gia của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc thi hành quy định này tại điểm a khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015. Văn bản hướng dẫn cần xác định cụ thể trường hợp nào là cần thiết phải mời đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá, hướng dẫn cụ thể việc mời đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã tham dự được thực hiện bằng hình thức cụ thể nào? Là thông báo hay giấy mời hay một hình thức nào khác. Đồng thời, cũng cần có ghi nhận cụ thể về phạm vi trách nhiệm của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã khi tham gia chứng kiến việc định giá. Từ đó, bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất và hiệu quả trong thực tiễn, tránh việc tùy nghi.

Ba là,về việc thông báo trước cho đương sự

Như phân tích ở trên, đây là quy định rất quan trọng, bảo đảm việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện một cách tốt nhất. Tuy nhiên, do quy định tại điểm 1 khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015 còn quá chung chung, dẫn đến thực tiễn áp dụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Tác giả kiến nghị, Hội đồng Thẩm phán TANDTC trên cơ sở tổng kết thi hành quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về nội dung này. Theo đó, hướng dẫn cần xác định cụ thể thời gian thông báo trước cho đương sự; tác giả kiến nghị thời gian này là 05 ngày làm việc trước khi tiến hành định giá tài sản tranh chấp.

Bốn là,về việc định giá lại

Tác giả kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định tại khoản 5 Điều 104 BLTTDS năm 2015. Theo đó, nội dung hướng dẫn cần xác định rõ: Căn cứ để xác định kết quả định giá lần đầu không chính xác và chủ thể nào có thẩm quyền cho định giá lại tài sản.

Kết luận

Quy định về định giá và thẩm định giá được ghi nhận tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 nằm trong Chương VII về chứng minh và chứng cứ. Theo đó, trong một số vụ án dân sự, khi giải quyết tranh chấp thì đòi hỏi phải tiến hành việc định giá và thẩm định giá. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là một nguồn của chứng cứ[7]. Có thể thấy, quy định này có ý nghĩa khá quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung Điều 104 BLTTDS năm 2015 cho thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Với việc phân tích, chỉ ra một số hạn chế, bất cập đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về nội dung này.


[1] Xem Điều 5 BLTTDS năm 2015.

[2] //vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh_gi%C3%A1, truy cập ngày 20/6/2023.

[3] Nguyễn Thị Hanh, Định giá tài sản và thẩm định giá tài sản, Luận văn cao học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2016, tr.2.

[4] Luật Giá năm 2023 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2023, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024.

[5] Nguyễn Thị Hanh, Tlđd, tr.6.

[6] Xem Điều 1 BLTTDS năm 2015.

[7] Khoản 7 Điều 94 BLTTDS năm 2015.

VŨ THỊ HÀ (Thẩm phán TAND Tp Hải Dương, tỉnh Hải Dương)

Thông tin mới về các phương pháp xác định giá đất trong dự thảo Luật Đất đai

Thông tin mới về các phương pháp xác định giá đất trong dự thảo Luật Đất đai

Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi).

Các phương pháp xác định giá đất được nêu trong dự thảo luật – Ảnh: THẾ THẾ

Điểm đáng chú ý trong thông báo kết luận và các phương pháp định giá đất.

Lãnh đạo Chính phủ yêu cầu tiếp thu kinh nghiệm quốc tế; nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện nguyên nhân tồn tại của từng phương pháp; điều kiện áp dụng, đảm bảo bao quát hết các trường hợp, không để xảy ra khoảng trống, dẫn đến ách tắc, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh. Từ đó bổ sung vào dự thảo luật các quy định phương pháp định giá đất cho phù hợp.

Dự kiến vẫn giữ phương pháp thặng dư khi định giá đất

Hiện nay theo quy định, được xác định theo 1 trong 5 phương pháp, bao gồm so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư và hệ số điều chỉnh giá đất. Các dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) trước đây cũng nêu các phương pháp xác định giá đất này.

Tuy nhiên dự thảo sửa đổi nghị định 44 quy định về giá đất đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường lấy ý kiến chỉ còn 3 phương pháp định giá đất, gồm so sánh, thu nhập và phương pháp hệ số. Phương pháp chiết trừ được lồng ghép vào phương pháp so sánh. Riêng phương pháp thặng dư, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bỏ.

Song với thông báo kết luận của phó thủ tướng, các phương pháp định giá đất vẫn được quy định trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và phương pháp thặng dư vẫn được giữ. Có nghĩa, dự thảo luật hiện nay sẽ còn lại 4 phương pháp gồm so sánh, thu nhập và phương pháp hệ số, phương pháp thặng dư.

Phó thủ tướng yêu cầu dự thảo cần quy định lộ trình áp dụng phương pháp định giá đất theo phương pháp vùng giá trị, thửa đất chuẩn khi có cơ sở dữ liệu giá đất thị trường. Giao Chính phủ quy định trình tự thủ tục, các trường hợp phải áp dụng các tổ hợp phương pháp để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, dữ liệu và phát triển của khoa học công nghệ.

Để khắc phục những tồn tại hạn chế về dữ liệu đầu vào, các bộ, ngành phải hoàn thiện các quy định để theo dõi, thống kê, giám sát, thu thập số liệu, biến động của thị trường đất đai đảm bảo dữ liệu đầu vào chính xác, tin cậy phù hợp.

Chủ động phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư

Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ quan soạn thảo cần rà soát để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các quy hoạch ngành, lĩnh vực thúc đẩy lẫn nhau để phát triển, nhất là quy hoạch giao thông, quy hoạch đô thị để gắn kết phát triển đô thị, công nghiệp, dịch vụ với hệ thống hạ tầng hướng tuyến (TOD).

Việc xác định các chỉ tiêu trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần bảo đảm tính ổn định về các chỉ tiêu quan trọng như đất lúa, đất rừng, bảo tồn thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu dân cư đã phát triển ổn định… các chỉ tiêu khác theo các nguyên tắc của thị trường.

Để đảm bảo chủ động trong lập phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư đi trước một bước nhưng vẫn đảm bảo sự linh hoạt theo nhu cầu của thị trường, cần có quy định cho phép điều chỉnh linh hoạt kế hoạch sử dụng đất hằng năm.

Tiếp tục rà soát, chỉnh lý theo hướng tăng cường phân cấp quản lý cho địa phương kết hợp với phân bổ nguồn lực, phù hợp với khả năng thực hiện của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân; cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp sử dụng đất hiệu quả, nhất là đất lúa, đất rừng, khai thác khoáng sản.

Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện cơ chế quản lý và sử dụng các loại đất, chú ý các loại đất có tiềm năng như: đất ven biển, đất lấn biển, đất để phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, đất xen kẹt… Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu hoàn thiện các quy định về đất khu kinh tế, khu công nghiệp.