Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 10 24, 2024

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 nêu ra một số vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện.

Việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là hoạt động diễn ra khá phổ biến trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Đây là hoạt động được thực hiện khi các bên đương sự không có sự thống nhất đối với giá của tài sản tranh chấp và cũng được đánh giá là hoạt động quan trọng, bởi, kết quả của hoạt động này bảo đảm kết quả giải quyết tranh chấp dân sự tương ứng. Do vậy, việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong vụ án dân sự cần được quy định một cách hiệu quả, khách quan và tiến bộ. Điều 104 BLTTDS năm 2015 về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản được đánh giá là có nhiều tiến bộ hơn so với quy định tại Điều 92 BLTTDSnăm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, quy định tại Điều luật này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc.

1. Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản

BLTTDS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, vừa bảo đảm tính kế thừa các quy định tiến bộ của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia tiên tiến trên thế giới, phù hợp với đòi hỏi của xã hội trong tình hình mới. Trong đó, có quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản được ghi nhận tại Điều 104 BLTTDS năm 2015.

Nghiên cứu nội dung Điều luật thì thấy, về cơ bản, quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 có nhiều nội dung được giữ nguyên so với quy định tại Điều 92 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Tuy nhiên, nhà làm luật có sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Điều luật này như sau:

Thứ nhất,về tên gọi của điều luật. Tại Điều 92 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nhà làm luật chỉ ghi nhận tên gọi điều luật là “Định giá tài sản” thì trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2011 tên gọi của Điều luật đã được thay đổi, bổ sung thêm thành “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản” và được giữ nguyên tại Điều 104 BLTTDS năm 2015.

Thứ hai,tại khoản 1 Điều 104 BLTTDS năm 2015 nhà làm luật bổ sung thêm quy định các bên có quyền “cung cấp giá tài sản đang tranh chấp”, ngoài việc quy định “các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản” như trong quy định tại khoản 1 Điều 92 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Đây là sự cụ thể hóa của nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự[1].

Thứ ba,khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định về việc Tòa án được thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp được ghi nhận tại điều khoản này.

Thứ tư,trong Điều 104 BLTTDS năm 2015, nhà làm luật bổ sung thêm khoản 5 ghi nhận việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự. Đây là nội dung lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTDS, bảo đảm tính tiến bộ và sự phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn xét xử, bảo đảm việc giải quyết vụ án chính xác, triệt để và khách quan.

Như vậy, có thể thấy quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của thực tiễn trong việc bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự được khách quan, toàn diện và chính xác.

Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung Điều luật thì thấy nhà làm luật mới chỉ ghi nhận về quyền của các bên đương sự cũng như thẩm quyền của Tòa án trong việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, việc thành lập Hội đồng định giá… mà chưa đưa ra khái niệm thế nào là định giá tài sản và thế nào là thẩm định giá tài sản. Do vậy, trong thực tế, cả về lý luận và thực tiễn còn những quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu về nội dung này.

Có quan điểm cho rằng:“Định giá là quá trình, trong đó một doanh nghiệp đặt giátại mức mà đó họ sẽ bán sản phẩm và dịch vụ của mình và điều này có thể là một phần trong kế hoạch tiếp thị.Trong việc thiết lập giá, doanh nghiệp sẽ tính đến mức giá mà nó có thể thu về được hàng hóa, chi phí sản xuất, thị trườngcạnh tranh, điều kiện thị trường, thương hiệuvà chất lượng sản phẩm”.[2]

Quan điểm khác lại cho rằng, định giá là việc quy định hay ước tính giá trị cho hàng hóa, dịch vụ để phục vụ các mục đích nhất định trong đời sống kinh tế xã hội.[3]

Khoản 11 Điều 4 Luật Giá năm 2023 quy định:“Định giá là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện xác định giá của hàng hóa, dịch vụ”[4].

Có thể thấy, việc định giá trong BLTTDS năm 2015 về cơ bản được xác định theo khái niệm định giá nêu tại khoản 11 Điều 4 Luật Giá năm 2023.

Về khái niệm thẩm định giá tài sản, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng, thẩm định giá tài sản là hoạt động do cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá tiến hành xác định giá trị bằng tiền của tài sản được quy định trong BLDS, phù hợp với giá trị thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định dựa theo tiêu chuẩn thẩm định giá để phục vụ cho mục đích nhất định.[5]

2. Một số tồn tại, hạn chế

2.1. Về mặt kỹ thuật lập pháp

Có thế thấy, xét một cách tổng thể thì BLTTDS năm 2015 được đánh giá là hoàn thiện và có nhiều tiến bộ về mặt kỹ thuật lập pháp, giúp cho việc hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật được thuận lợi, thống nhất hơn, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật[6]. Tuy nhiên, thực quá trình áp dụng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện trong lần pháp điển hóa tiếp theo. Và quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 là một dẫn chứng.

Thứ nhất,tại khoản 1 Điều 104 nhà làm luật bổ sung thêm nội dung các bên có quyền “cung cấp giá tài sản đang tranh chấp”, và giữ nguyên quy định “đương sự có quyền thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp” quy định trong BLTTDS trước đây. Theo đó, điều khoản ghi nhận đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về giá của tài sản đang tranh chấp, đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, xét về mặt kỹ thuật lập pháp thì quy định này chưa thực sự đầy đủ và chính xác. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản Điều 5 BLTTDS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận, tự do ý chí của các bên như sau:“Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.”

Như vậy, việc thỏa thuận của các bên đương sự chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ khi sự thỏa thuận đó là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 104 ghi nhận sự thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp của các bên đương sự nhưng không ghi nhận điều kiện kèm theo khiến cho thực tế tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Theo đó, có quan điểm cho rằng, vì điều luật chỉ ghi nhận các bên được quyền tự do thỏa thuận về giá của tài sản đang tranh chấp, do vậy, khi các bên thống nhất được với nhau thì thỏa thuận đó mặc nhiên được công nhận mà không cần xem xét thỏa thuận đó có trái đạo đức xã hội hay không? (ví dụ: Thỏa thuận đó làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba).

Tác giả cho rằng, trong thực tiễn xét xử, về nguyên tắc chung Tòa án khi xem xét thỏa thuận của các đương sự về giá của tài sản tranh chấp sẽ phải xem xét, đánh giá xem nội dung thỏa thuận đó có là tự nguyện không? Có vi phạm điều cấm của luật hay có trái đạo đức xã hội hay không để đưa ra quyết định chấp nhận hay bác bỏ thỏa thuận đó. Tuy nhiên, rõ ràng với cách ghi nhận tại khoản 1 Điều 104 BLTTDS năm 2015 về quyền thỏa thuận của các bên là chưa đầy đủ, chính xác, chưa bảo đảm yêu cầu trong kỹ luật lập pháp khiến cho nội dung Điều luật thiếu tính nhất quán với các quy định khác của BLTTDS năm 2015 và chưa thực sự phát huy được tính hiệu lực, hiệu quả như nhà làm luật mong muốn.

Thứ hai,về các trường hợp Tòa án ra quyết định định giá tài sản

Khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định:

“Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;

b) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản….”

Nghiên cứu nội dung quy định tại điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 thì thấy quy định có sự chồng chéo, chưa bảo đảm kỹ thuật lập pháp.

Cụ thể, nội dung điều khoản này ghi nhận 03 trường hợp Tòa án sẽ ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá tài sản gồm: (i) các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản; (ii) đưa ra giá tài sản khác nhau; (iii) không thỏa thuận được giá tài sản.

Tuy nhiên, có thể thấy trường hợp (i) và (ii) có khác nhau về câu chữ còn nội hàm thì tương tự nhau, hay nói cách khác, việc các đương sự đưa ra giá tài sản khác nhau cũng giống như việc các đương sự không thỏa thuận được giá tài sản. Do vậy, việc tách thành 02 trường hợp như vậy là không chính xác, gây ra sự chồng chéo, thiếu logic trong quy định của điều khoản.

2.2. Về sự tham gia của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá

Khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định về trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá, định giá tài sản, trong đó ghi nhận:“…Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá…”

Như vậy, trong trường hợp cần thiết thì Tòa án mời đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá tham gia phiên định giá với tư cách là người “chứng kiến việc định giá”. Quy định này là phù hợp và cần thiết, bởi lẽ, chính quyền địa phương là chủ thể có nhiều thông tin liên quan đến tài sản định giá và điều này giúp ích cho Hội đồng định giá trong việc định giá tài sản tranh chấp bảo đảm tính chính xác, hiệu quả.

Tuy nhiên, quy định của điều luật còn khá chung chung khiến cho việc áp dụng trong thực tế mang tính tùy nghi, thiếu sự thống nhất. Cụ thể, điều luật quy định “trong trường hợp cần thiết” nhưng lại không xác định cụ thể trường hợp nào được xác định là cần thiết, dẫn đến việc có những trường hợp có tính chất tương tự nhưng có Tòa án thì mời đại diện Ủy ban nhân dân xã nơi có tài sản định giá tham gia chứng kiến, có Tòa án thì cho rằng không cần thiết nên đã không mời.

Đồng thời, việc “mời” này được thực hiện thông qua cách thức nào cũng chưa được quy định cụ thể, mời bằng giấy mời hay thông báo hay một dạng văn bản nào khác… dẫn đến việc áp dụng thiếu thống nhất trong thực tiễn giữa các Tòa án.

Một vấn đề quan trọng nữa là, điều luật chỉ quy định việc mời đại diện Ủy ban nhân dân xã chứng kiến việc định giá chứ không quy định đối tượng cụ thể là ai. Do vậy, cá nhân tham gia chứng kiến việc định giá là thuộc thẩm quyền “cử” của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, và dẫn đến việc tùy nghi, thiếu thống nhất trong việc cử người tham gia, khiến cho việc tham gia này mang nặng tính hình thức. Ví dụ: Cùng có đối tượng định giá là đất ở, nhưng có Ủy ban nhân dân cấp xã cử cán bộ địa chính xã tham gia, có Ủy ban nhân dân cấp xã lại cử cán bộ phụ trách văn hóa tham gia. Việc cử này khó bảo đảm được hiệu quả, hơn nữa, với cách ghi nhận vai trò tham gia của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá chỉ là người chứng kiến mà chưa quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của họ khi tham gia khiến việc tham gia này thường mang tính chiếu lệ, cho có, chứ không bảo đảm thực chất, hiệu quả.

2.3. Về việc thông báo trước cho đương sự

Điểm a khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định:“Các đương sự được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định giá…”

Như vậy, theo quy định tại điều khoản này thì các đương sự sẽ được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá. Đây là quy định tiến bộ và hợp lý, bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Bởi lẽ, các đương sự có quyền tham sự buổi định giá, có quyền phát biểu về việc định giá để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình. Ý kiến của đương sự được ghi vào biên bản định giá được xác định là nguồn của chứng cứ. Tuy nhiên, điều luật chỉ quy định “các đương sự được thông báo trước về thời gian tiến hành định giá” nhưng không có quy định cụ thể thời gian thông báo trước là bao lâu? Điều này dẫn đến nhiều trường hợp gây khó khăn cho đương sự, khiến họ không tham dự được buổi định giá, không được quyền phát biểu ý kiến về việc định giá, dẫn đến không đồng ý kết quả định giá và khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Ví dụ: Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B có tranh chấp đối với mảnh đất ở xã C. Tòa án tiến hành định thành lập Hội đồng định giá đối với mảnh đất này vào ngày 20/6, nhưng đến trưa ngày 19/6 mới phát hành thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành định giá cho B. Lúc này, B đang đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương, khi nhận được thông báo thì không về kịp để tham gia buổi định giá.

Như vậy, rõ ràng là việc quy định chưa cụ thể về thời hạn gửi thông báo cho đương sự về việc định giá dẫn đến thực tiễn áp dụng thiếu thống nhất, một số trường hợp lợi dụng quy định này cố tình gây khó khăn cho đương sự, khiến vụ án dân sự bị khéo dài thời gian giải quyết, gây bức xúc cho người dân, gây mất niềm tin vào cơ quan tiến hành tố tụng, niềm tin vào công lý.

2.4. Về việc định giá lại tài sản

Khoản 5 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định:“Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự”.

Đây là nội dung được ghi nhận trong BLTTDS năm 2015 nhằm đảm bảo việc định giá tài sản được khách quan, chính xác, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các bên khi có căn chứ cho thấy kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nới có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này cũng còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cụ thể:

Căn cứ vào đâu để xác định kết quả định giá lần đầu không chính xác? Chủ thể nào có thẩm quyền cho định giá lại tài sản và căn cứ nào để quyết định việc định giá lại?

Có thể thấy, quy định này được đặt ra là hoàn toàn cần thiết, nhưng do việc quy định chưa cụ thể, rõ ràng khiến cho việc áp dụng trong thực tế gặp nhiều khó khăn. Và đây có thể là nội dung mà một trong các bên đương sự cố tình lợi dụng để kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây khó khăn cho bên đương sự còn lại.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là quy định hết sức quan trọng, bởi lẽ, thực tiễn giải quyết các vụ dân sự, các Thẩm phán thường phải tiếp nhận giải quyết yêu cầu này của các bên đương sự trong quan hệ tranh chấp. Đây cũng là khâu quan trọng giúp việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện để các bên nhanh chóng ổn định sản xuất, ổn định cuộc sống của mình. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định luật về nội dung này là yêu cầu tất yếu, khách quan. Tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị sau đây:

Một là,đối với nội dung Điều 104 BLTTDS năm 2015, tác giả kiến nghị như sau:

Sửa đổi khoản 1 là:“1. Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp. Việc thỏa thuận của đương sự bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật này.”

Về nội dung điểm b khoản 3 Điều 104, tác giả kiến nghị bỏ nội dung “không thỏa thuận được giá tài sản” và nội dung điều khoản này sau khi được sửa đổi lại như sau:“Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau”.

Hai là,về sự tham gia của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc thi hành quy định này tại điểm a khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015. Văn bản hướng dẫn cần xác định cụ thể trường hợp nào là cần thiết phải mời đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá, hướng dẫn cụ thể việc mời đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã tham dự được thực hiện bằng hình thức cụ thể nào? Là thông báo hay giấy mời hay một hình thức nào khác. Đồng thời, cũng cần có ghi nhận cụ thể về phạm vi trách nhiệm của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã khi tham gia chứng kiến việc định giá. Từ đó, bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất và hiệu quả trong thực tiễn, tránh việc tùy nghi.

Ba là,về việc thông báo trước cho đương sự

Như phân tích ở trên, đây là quy định rất quan trọng, bảo đảm việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện một cách tốt nhất. Tuy nhiên, do quy định tại điểm 1 khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015 còn quá chung chung, dẫn đến thực tiễn áp dụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Tác giả kiến nghị, Hội đồng Thẩm phán TANDTC trên cơ sở tổng kết thi hành quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về nội dung này. Theo đó, hướng dẫn cần xác định cụ thể thời gian thông báo trước cho đương sự; tác giả kiến nghị thời gian này là 05 ngày làm việc trước khi tiến hành định giá tài sản tranh chấp.

Bốn là,về việc định giá lại

Tác giả kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định tại khoản 5 Điều 104 BLTTDS năm 2015. Theo đó, nội dung hướng dẫn cần xác định rõ: Căn cứ để xác định kết quả định giá lần đầu không chính xác và chủ thể nào có thẩm quyền cho định giá lại tài sản.

Kết luận

Quy định về định giá và thẩm định giá được ghi nhận tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 nằm trong Chương VII về chứng minh và chứng cứ. Theo đó, trong một số vụ án dân sự, khi giải quyết tranh chấp thì đòi hỏi phải tiến hành việc định giá và thẩm định giá. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là một nguồn của chứng cứ[7]. Có thể thấy, quy định này có ý nghĩa khá quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung Điều 104 BLTTDS năm 2015 cho thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Với việc phân tích, chỉ ra một số hạn chế, bất cập đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về nội dung này.


[1] Xem Điều 5 BLTTDS năm 2015.

[2] //vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh_gi%C3%A1, truy cập ngày 20/6/2023.

[3] Nguyễn Thị Hanh, Định giá tài sản và thẩm định giá tài sản, Luận văn cao học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2016, tr.2.

[4] Luật Giá năm 2023 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2023, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024.

[5] Nguyễn Thị Hanh, Tlđd, tr.6.

[6] Xem Điều 1 BLTTDS năm 2015.

[7] Khoản 7 Điều 94 BLTTDS năm 2015.

VŨ THỊ HÀ (Thẩm phán TAND Tp Hải Dương, tỉnh Hải Dương)

Thông tin mới về các phương pháp xác định giá đất trong dự thảo Luật Đất đai

Thông tin mới về các phương pháp xác định giá đất trong dự thảo Luật Đất đai

Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi).

Các phương pháp xác định giá đất được nêu trong dự thảo luật – Ảnh: THẾ THẾ

Điểm đáng chú ý trong thông báo kết luận và các phương pháp định giá đất.

Lãnh đạo Chính phủ yêu cầu tiếp thu kinh nghiệm quốc tế; nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện nguyên nhân tồn tại của từng phương pháp; điều kiện áp dụng, đảm bảo bao quát hết các trường hợp, không để xảy ra khoảng trống, dẫn đến ách tắc, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh. Từ đó bổ sung vào dự thảo luật các quy định phương pháp định giá đất cho phù hợp.

Dự kiến vẫn giữ phương pháp thặng dư khi định giá đất

Hiện nay theo quy định, được xác định theo 1 trong 5 phương pháp, bao gồm so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư và hệ số điều chỉnh giá đất. Các dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) trước đây cũng nêu các phương pháp xác định giá đất này.

Tuy nhiên dự thảo sửa đổi nghị định 44 quy định về giá đất đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường lấy ý kiến chỉ còn 3 phương pháp định giá đất, gồm so sánh, thu nhập và phương pháp hệ số. Phương pháp chiết trừ được lồng ghép vào phương pháp so sánh. Riêng phương pháp thặng dư, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bỏ.

Song với thông báo kết luận của phó thủ tướng, các phương pháp định giá đất vẫn được quy định trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và phương pháp thặng dư vẫn được giữ. Có nghĩa, dự thảo luật hiện nay sẽ còn lại 4 phương pháp gồm so sánh, thu nhập và phương pháp hệ số, phương pháp thặng dư.

Phó thủ tướng yêu cầu dự thảo cần quy định lộ trình áp dụng phương pháp định giá đất theo phương pháp vùng giá trị, thửa đất chuẩn khi có cơ sở dữ liệu giá đất thị trường. Giao Chính phủ quy định trình tự thủ tục, các trường hợp phải áp dụng các tổ hợp phương pháp để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, dữ liệu và phát triển của khoa học công nghệ.

Để khắc phục những tồn tại hạn chế về dữ liệu đầu vào, các bộ, ngành phải hoàn thiện các quy định để theo dõi, thống kê, giám sát, thu thập số liệu, biến động của thị trường đất đai đảm bảo dữ liệu đầu vào chính xác, tin cậy phù hợp.

Chủ động phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư

Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ quan soạn thảo cần rà soát để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các quy hoạch ngành, lĩnh vực thúc đẩy lẫn nhau để phát triển, nhất là quy hoạch giao thông, quy hoạch đô thị để gắn kết phát triển đô thị, công nghiệp, dịch vụ với hệ thống hạ tầng hướng tuyến (TOD).

Việc xác định các chỉ tiêu trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần bảo đảm tính ổn định về các chỉ tiêu quan trọng như đất lúa, đất rừng, bảo tồn thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu dân cư đã phát triển ổn định… các chỉ tiêu khác theo các nguyên tắc của thị trường.

Để đảm bảo chủ động trong lập phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư đi trước một bước nhưng vẫn đảm bảo sự linh hoạt theo nhu cầu của thị trường, cần có quy định cho phép điều chỉnh linh hoạt kế hoạch sử dụng đất hằng năm.

Tiếp tục rà soát, chỉnh lý theo hướng tăng cường phân cấp quản lý cho địa phương kết hợp với phân bổ nguồn lực, phù hợp với khả năng thực hiện của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân; cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp sử dụng đất hiệu quả, nhất là đất lúa, đất rừng, khai thác khoáng sản.

Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện cơ chế quản lý và sử dụng các loại đất, chú ý các loại đất có tiềm năng như: đất ven biển, đất lấn biển, đất để phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, đất xen kẹt… Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu hoàn thiện các quy định về đất khu kinh tế, khu công nghiệp.

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh lý giải 4 phương pháp định giá đất

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh lý giải 4 phương pháp định giá đất

Theo Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh, sau khi Luật Đất đai có hiệu lực sẽ xây dựng bảng giá đất hằng năm lần đầu tiên và dự kiến xong trước ngày 31-12-2025. Chính quyền địa phương cũng sẽ đối thoại với nhân dân để quyết định nơi tái định cư.

Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh – Ảnh: GIA HÂN

Chiều 21-6, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đã có giải trình các ý kiến đại biểu Quốc hội về dự án Luật Đất đai (sửa đổi).

Bỏ khung giá đất và sẽ thực hiện bảng giá đất hằng năm

Theo đó, cơ quan soạn thảo xác định nguyên tắc với các luật được ban hành trước ngày Luật Đất đai có hiệu lực sẽ rà soát luật nào có mâu thuẫn, xung đột thì quy định cụ thể về nội dung sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ ngay tại dự thảo luật, bảo đảm có hiệu lực đồng bộ, bảo đảm tính khả thi.

Đối với các luật đã có trong chương trình xây dựng pháp luật như Luật Giá, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Công chứng, Luật Đấu thầu… sẽ được rà soát, thống nhất quy định với Luật Đất đai.

Ông nêu rõ sẽ tiếp thu, rà soát quy định về tài chính đất, giá đất, đánh giá đầy đủ tác động nghiên cứu kỹ lưỡng chi phí đất đai là chi phí đầu vào quan trọng của nền kinh tế.

Việc này sẽ thực hiện đảm bảo phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai và đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất, nhà đầu tư.

Nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến việc liên quan đến nguyên tắc, phương pháp định giá đất, áp dụng bảng giá đất và giá đất cụ thể và phương pháp tính định giá đất.

Trao đổi về vấn đề này, ông Khánh cho biết dự thảo luật bỏ khung giá đất và sẽ thực hiện bảng giá đất hằng năm. Sau khi Luật Đất đai có hiệu lực sẽ xây dựng bảng giá đất hằng năm lần đầu tiên và dự kiến xong trước ngày 31-12-2025.

Ông cho hay bảng giá đất quá trình xây dựng đầu tiên là khó khăn, mất thời gian nhưng hằng năm chỉ cần cập nhật sự thay đổi.

Về phương pháp tính định giá đất, dự thảo luật đưa ra bốn phương pháp, cụ thể, theo ông Khánh là phương pháp so sánh trực tiếp với giá thị trường, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu nhập và phương pháp hệ số điều chỉnh.

Ông chỉ rõ bốn phương pháp này sẽ bao trùm tất cả những trường hợp của đất đai: “Với phương pháp so sánh trực tiếp với thị trường sẽ sát giá thị trường. Quan trọng nhất là đầu vào phải sát”.

Theo ông Khánh, hiện nay có bảng giá đất hằng năm nên việc thu thuế chuyển nhượng sẽ căn cứ vào đây để thu. Từ đó, sẽ bớt hiện tượng giảm giá tiền khi giao dịch, đảm bảo quyền lợi người giao dịch. Vì vậy, việc so sánh trực tiếp sẽ chính xác, sát thị trường hơn.

“Với phương pháp chiết trừ chỉ là chiết trừ phần tài sản trên đất và sau đó lại dùng phương pháp so sánh để tính. Còn với phương pháp thu nhập sẽ sử dụng cho các vùng đất đồng bào dân tộc thiểu số, khó khăn, không có giao dịch về đất… Khi đó phải dùng thu nhập để đưa ra được giá đất.

Về phương pháp hệ số điều chỉnh thì dùng cho những nơi có sự ổn định nhưng đầu vào cũng phải gắn với thị trường”, ông Khánh lý giải.

Đối thoại với dân về nơi tái định cư

Về định giá đất cụ thể, ông Khánh cho rằng tùy theo trường hợp, địa phương sẽ quyết định trong đó đảm bảo phòng chống tham nhũng, tiêu cực và sát nhất với thị trường và đảm bảo được công bằng.

“Chúng ta sẽ ưu tiên đấu giá đất để tăng nguồn thu cho ngân sách. Đấu giá đất phải là đất sạch. Nhà nước đứng ra đấu giá đất theo đúng quy hoạch. Tuy nhiên, việc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư nên giao cho HĐND tỉnh quyết định những dự án trọng điểm, cần thiết của địa phương”, ông Khánh nêu.

Về bồi thường hỗ trợ tái định cư, ông nói nghị quyết 18 định hướng phải đảm bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

“Cần điều tra xã hội học, chọn vị trí vừa ở, vừa sản xuất, phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa, tính cộng đồng, dân tộc. Như vậy, chính quyền địa phương phải quyết định được nơi tái định cư như thế nào. Từ đó sẽ tham khảo, đối thoại với nhân dân để quyết định nơi tái định cư.

Chắc chắn chúng ta phải xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tốt hơn nơi ở cũ. Đảm bảo cuộc sống đó là sinh kế của nhân dân, đào tạo lao động…”, ông Khánh nêu thêm.

Thủ tướng: Định giá đất không lòng vòng, chậm trễ, tỉnh ủy quyền cho huyện

Thủ tướng: Định giá đất không lòng vòng, chậm trễ, tỉnh ủy quyền cho huyện

Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký ban hành công điện số 634 về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác định giá đất.

Việc định giá đất được thực hiện với tinh thần không lòng vòng, không gây phiền hà, chậm trễ, ảnh hưởng đến tiến độ dự án đầu tư – Ảnh: T. HUẾ

Công điện gửi bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường và chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nêu rõ, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 73 làm cơ sở để UBND tỉnh, thành phố thực hiện ủy quyền cho UBND cấp huyện quyết định giá đất cụ thể. Vấn đề này cũng đã được Thường trực Chính phủ, Thủ tướng có nhiều văn bản chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

Tuy nhiên theo kiến nghị của nhiều địa phương, công tác định giá đất ở một số nơi vẫn gặp nhiều khó khăn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Dẫn đến việc định giá đất cụ thể rất chậm, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án đầu tư.

Để kịp thời giải quyết các vướng mắc, Thủ tướng giao bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương hoàn thành trước ngày 31-7 việc sửa đổi, bổ sung thông tư số 36/2014 về quy định chi tiết phương pháp định giá đất, xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất.

Cùng thời hạn trên, bộ cũng phải trình Chính phủ xem xét, ban hành nghị định sửa đổi, bổ sung nghị định số 44/2014 quy định về giá đất. Việc sửa đổi theo hướng đơn giản hóa thủ tục, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường trách nhiệm cá nhân người đứng đầu.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, dứt khoát không gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và quy định của pháp luật.

Bộ thường xuyên theo dõi, kịp thời hướng dẫn và xử lý các vướng mắc cho các địa phương, nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình triển khai đẩy mạnh công tác định giá đất, quyết định giá đất trên cơ sở thành lập tổ công tác của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Người đứng đầu Chính phủ cũng giao chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo công tác định giá đất, quyết định giá đất theo thẩm quyền. Việc tháo gỡ với tinh thần không lòng vòng, không gây phiền hà, chậm trễ, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án đầu tư.

UBND cấp tỉnh thực hiện việc ủy quyền cho UBND cấp huyện xác định giá đất cụ thể theo quy định, kịp thời báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường để được hướng dẫn, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.

Thủ tướng phân công Phó thủ tướng Trần Hồng Hà trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các bộ trưởng: Tư pháp, Tài chính, Xây dựng và các bộ, ngành liên quan chủ động phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường kịp thời hướng dẫn các địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác định giá đất.

Các bộ trưởng và chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng trong việc tổ chức, thực hiện. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc các bộ, cơ quan liên quan và các địa phương trong việc thực hiện công điện, kịp thời báo cáo Thủ tướng vấn đề vướng mắc, khó khăn.

TP.HCM ủy quyền cho địa phương lập hội đồng thẩm định giá đất

TP.HCM ủy quyền cho địa phương lập hội đồng thẩm định giá đất

Việc ủy quyền cho địa phương lập hội đồng thẩm định giá đất là một trong những nội dung được vận dụng theo các cơ chế chính sách theo nghị quyết 73 của Chính phủ.

Việc ủy quyền được thực hiện kể từ khi quyết định này có hiệu lực thi hành (1-9) cho đến khi Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua thay thế Luật Đất đai năm 2013 – Ảnh: QUANG ĐỊNH

UBND TP.HCM vừa có quyết định về việc ủy quyền cho UBND TP Thủ Đức và các quận, huyện quyết định giá đất cụ thể và thành lập hội đồng thẩm định giá đất.

Hội đồng này sẽ do chủ tịch UBND TP Thủ Đức và các quận, huyện làm chủ tịch. Lãnh đạo phòng tài chính hoặc phòng tài chính kế hoạch làm phó chủ tịch thường trực. Lãnh đạo phòng tài nguyên và môi trường làm phó chủ tịch.

Các cơ quan chuyên môn cấp huyện có liên quan và lãnh đạo UBND cấp xã nơi có đất; tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất hoặc chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do UBND TP Thủ Đức và các quận, huyện quyết định.

Phòng tài nguyên và môi trường sẽ giúp UBND TP Thủ Đức và các quận, huyện trong việc tổ chức xác định giá đất.

Ngoài ra, UBND TP còn ủy quyền cho các địa phương quyết định giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; thu tiền sử dụng đất khi giao đất tái định cư. Tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Xác định giá đất đối với diện tích vượt hạn mức khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở; xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân.

Việc ủy quyền được thực hiện kể từ khi quyết định này có hiệu lực thi hành (1-9) cho đến khi Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua thay thế Luật Đất đai năm 2013.

Đối với các hồ sơ đã được Sở Tài nguyên và Môi trường trình Hội đồng thẩm định giá đất TP trước ngày này thì vẫn tiếp tục thẩm định, trình UBND TP.HCM phê duyệt.

UBND TP giao các địa phương tổ chức sắp xếp, bố trí các nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện các nội dung đã được ủy quyền.

Lập dự toán kinh phí thực hiện các nội dung ủy quyền quyết định giá đất cụ thể và thanh, quyết toán theo hướng dẫn của Sở Tài chính.

Việc báo cáo kết quả thực hiện các nội dung được ủy quyền gửi Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên và Môi trường trước ngày 30-11 hằng năm để tổng hợp báo cáo UBND TP.HCM. Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc phải kịp thời báo cáo UBND TP.HCM xem xét, quyết định.

Cấp huyện sẽ lập hội đồng thẩm định giá đất

Ngày 6-5 vừa qua, Chính phủ ban hành nghị quyết 73 về việc ủy quyền quyết định giá đất cụ thể.

UBND các tỉnh, TP trực thuộc trung ương sẽ căn cứ quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, kết luận 14 của Bộ Chính trị và tình hình thực tế của địa phương thực hiện ủy quyền cho UBND cấp huyện một số nội dung.

Trong đó có việc ủy quyền cho cấp huyện quyết định giá đất cụ thể và thành lập hội đồng thẩm định giá đất.

Tranh chấp đất kéo dài, tòa yêu cầu thẩm định giá tài sản nhiều lần, tôi phải làm sao?

Đề xuất chuẩn mực Thu thập và Phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá

TTO – Vụ tranh chấp đất của tôi kéo dài, quyết định giám đốc thẩm đã tuyên hủy hết các bản án cũ, trả hồ sơ xét xử lại từ đầu.

* Vừa rồi tòa án yêu cầu thẩm định giá. Lần thẩm định giá gần nhất là năm 2014. Nếu tôi không đồng ý thẩm định giá lại thì sao?

Bạn đọc Nguyễn Thị Kim Phụng (TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, điện thoại 097293…)

– Luật sư Vũ Quang Đức (Đoàn luật sư TP.HCM) tư vấn:Khoản 5, điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định “việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự”.

Do đó, nếu có căn cứ cho rằng kết quả định giá năm 2014 không còn phù hợp với giá thị trường thì tòa có quyền yêu cầu thẩm định giá lại.

Trường hợp bạn đọc không đồng ý thẩm định giá lại thì có thể làm đơn trình bày với tòa lý do không đồng ý thẩm định giá lại.

Tuy nhiên cần lưu ý, điều 164, 165 bộ luật này cũng quy định nếu yêu cầu của đương sự không được tòa chấp nhận thì đương sự phải có nghĩa vụ chịu chi phí thẩm định giá và phải nộp tiền tạm ứng chi phí thẩm định giá.

Nếu nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng thì có thể bị tòa đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ, khoản 1 điều 217.