Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng mười một 2022

Khái niệm thẩm định giá là gì? Đặc điểm của thẩm định giá?

Mọi giá trị của tài sản là vật, giấy tờ có giá, quyền tài sản suy cho đến cùng cũng được biểu thị qua tài sản là “tiền”, tiền là sự thể hiện rõ nhất cho mọi tài sản và dễ tác động tới nhận thức của con người. Do đó, hoạt động thẩm định giá ra đời có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm xác định các giá trị tương đương giữa “tiền-vật”, thường được áp dụng trong hoạt động thanh lý tài sản, góp vốn doanh nghiệp, thế chấp tài sản,…Dưới góc độ khoa học và pháp lý, thẩm định giá là nội dung được nhiều người quan tâm và tìm hiểu, điều đó khiến cho Luật Dương Gia quyết định đi sâu tìm hiểu về khái niệm và đặc điểm về thẩm định giá, vai trò của thẩm định giá ngay trong bài viết dưới đây.

1. Khái niệm thẩm định giá là gì?

Khi nghiên cứu về thẩm định giá, giới nghiên cứu học thuậttrên thế giớiđã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau:

Theo tự điển Oxford: “Thẩm định giá là sự ước tính giá trị bằng tiền của một vật, của một tài sản”; “là sự ước tính giá trị hiện hành của tài sản trong kinh doanh”. Khái niệm thẩm định giá này đưa ra vẫn còn rất chung, chỉ mang tính chất giải thích một cách khái quát từ ngữ mà chưa đưa ra được bản chất của thẩm định giá.

Cũng tương đồng như từ điển Oxford, giáo sư W.seabrooke- Viện đại học Portsmaouth, Vương quốc Anh đưa ra định nghĩa: “Thẩm định giá là sự ước tính giá trị của các quyền sở hữuu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định.”

Theo Ông Fred Peter Marrone – Giám đốc Marketing của AVO, Úc “Thẩm định giá là việc xác định giá trị của bất động sản tại một thời điểm có tính đến bản chất của bất động sản và mục đích của thẩm định giá. Do vậy, thẩm định giá là áp dụng các dữ liệu của thị trường so sánh mà các thẩm định viên thu thập được và phân tích chúng, sau đó so sánh với tài sản được yêu cầu thẩm định giá để hình thành giá trị của chúng”.

Một định nghĩa khác được đưa ra từ ông Greg Mc.Namara- nguyên Chủ tịch Hiệp hội Thẩm định giá Quốc tế: “Thẩm định giá là việc xác định giá trị của tài sản tại một thời điểm có tính đến bản chất của tài sản và mục đích của thẩm định giá tài sản. Do vậy, thẩm định giá là áp dụng các dữ liệu thị trường so sánh mà các nhà thẩm định giá thu thập được và phân tích chúng, sau đó so sánh với tài sản được yêu cầu thẩm định giá để hình thành giá trị của chúng.” Bắt đầu từ khái niệm này, chúng ta dần thấy được bản chất thực sự của khái niệm thẩm định giá, ở đây, chúng ta đã nhận thức được thẩm đính giá là một hoạt động xác định giá trị tài sản.

Ở Việt Namkhái niệm thẩm định giá lần đầu tiên được biết đến khi quy định trong Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH sau đó được thay bằng Luật giá năm 2012. Khái niệm thẩm định giá được quy định tại khoản 15, Điều 4 Luật giá 2012 :Thẩm định giálà việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.

So với những định nghĩa đã được đưa ra ở trên, định nghĩa thẩm định giá theo Luật Giá 2012 đã thể hiện được sự bao quát về cả chủ thể, đối tượng và bản chất của thẩm định giá, vừa phù hợp với định nghĩa của các nhà chuyên môn nước ngoài đưa ra vừa phù hợp với hoạt động thẩm định giá của nước ta.

Như vậy, từ những định nghĩa trên, ta có thể hiểu khái quát về thẩm định giá như sau:

Thẩm định giálà việc của các cá nhân, tổ chức có chắc năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản có xem xét đến các yếu tố về địa điểm và thời điểm, tiêu chuẩn thẩm định giá nhằm phục vụ cho một mục đích nhất định.

Liên quan đến khái niệm thẩm định giá, cần có sự phân biệt với khái niệm định giá, đây là hai khái niệm được định nghĩa hoàn toàn khác nhau, thẩm định giá là việc chủ thể có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản dựa trên yếu tố địa điểm và thời điểm, tiêu chuẩn thẩm định giá nhằm phục vụ cho một mục đích nhất định. Chủ thể của hoạt động thẩm định giá có thể là cơ quan, tổ chức có chắc năng thẩm định giá và chỉ những có quan có chức năng thẩm định giá mới được thực hiện việc xác định giá trị tài sản.

Trong khi đó, định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh quy định giá cho hàng hóa dịch vụ. Như vậy, định giá là việc xác định giá của người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản và việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhận định giá mang tính áp đặt chủ quan, không tuân theo tiêu chuẩn, nguyên tắc nào.

Từ định nghĩa của hai khái niệm trên có thể phân biệt dựa trên một số khía cạnh về bản chất, mục đích, phương pháp xác định giá trị tài sản, chủ thể thực hiện.

2. Đặc điểm của thẩm định giá:

Từ những định nghĩa được nêu ra ở mục 1, có thể nhận thấy thẩm định giá mang những đặc điểm sau:

Chủ thể của thẩm định giá là các cá nhân, cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá.

Điều này có nghĩa rằng, không phải cơ quan, tổ chức ha cá nhân nào đều có thể thực hiện hoạt động thẩm định giá mà chỉ có những cá nhân, tổ chức có chức năng thẩm định giá mới có quyền được thực hiện việc thẩm định giá. Chúng ta nhận thấy chủ thể tham gia thâm định giá phải có chức năng thẩm định giá, điều đó có nghĩa là chủ thể phải được công nhận có chức năng thẩm định giá mới được hoạt động thẩm định giá, nếu không có chức năng thì kết quả thẩm định giá không có giá trị về mặt pháp lý.

Nội dung của hoạt động thẩm định giá là xác định giá trị bằng tiền của tài sản

Như đã nói ở trên, nếu định giá là ấn định giá hàng hóa dịch vụ một cách chủ quan, áp đặt nhằm đưa hàng hóa vào lưu thông trong nền kinh tế thì thẩm định giá lại là xác định giá trị của hàng hóa đó với nội dung là đánh giá hoặc đánh giá lại hàng hóa phù hợp với thị trường tại một thời điểm, địa điểm nhất định. Việc xác định giá trị là hoạt động rất khách quan, độc lập thực hiện dựa trên các tiêu chuẩn về thẩm định giá. Tài sản xuất hiện trên thị trường với rất nhiều đặc tính khác nhau và việc xác định đúng giá trị bằng tiền với đặc tính kỹ thuật được yêu cầu đòi hỏi chủ thể thẩm định giá phải hiểu và nắm bắt đúng thị trường.

Đối tượng của thẩm định giá là tài sản

Tài sản là một khái niệm rất chung chỉ những vật, quyền thuộc sở hữu của một cá nhân, tổ chức nào đó. Như vậy, tài sản ở đây có định nghĩa nhấn mạnh quyền sở hữu hơn là việc xác định nó là cái gì. Tuy nhiên, trên thực tế, thẩm định giá, có thể xác định đối tượng được hưởng đến chủ yếu là động sản, bất động sản, doanh nghiệp,..như vậy, những gì có thể được định giá thành tiền đều có thể là đối tượng của thẩm định giá. Tuy nhiên những tài sản đó cũng phải đáp ứng những điều kiện nhất định như được phép lưu thông trên thị trường, có thể nhận thức được sự hiện diện của tài sản bằng những cách thức nhất định.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thẩm định giá gồm địa điểm, thời điểm, mục đích, tiêu chuẩn thẩm định giá.

Giá thị trường đã trở thành một yếu tố tất yếu của thị trường, bất cứ hàng hóa nào lưu thông trên thị trường đều bị chi phối bởi giá thị trường và không chỉ trong phạm vi một quốc gia, mà còn ảnh hưởng bởi giá thị trường thế giới. Thẩm định giá bị ảnh hưởng bởi địa điểm và thời điểm do giá thị trường biến đổi nhanh chóng tại thời điểm này, giá trị bằng tiền của tài sản có thể rất thấp nếu như nhu cầu của người mua giảm nhưng có thể thay đổi chỉ trong một thời gian ngắn nếu lại có sự biến đổi về nhu cầu hay sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Bên cạnh đó, giá tài sản tại nơi có giao thông thuận lợi hoặc giữa vùng này với vùng khác cũng có những sự khác nhau nhất định. Cho nên, khi xác định giá trị của tài sản cần phải quan tâm đến yếu tố về thời điểm và địa điểm.

Sự tác động của mục đích thẩm định giá không giống với thời điểm và địa điểm do tác động không phải trực tiếp ảnh hưởng đến giá trị bằng tiền của tài sản mà nó ảnh hưởng đến người sử dụng kết quả thẩm định giá của cơ quan, tổ chức.

Có thể thấy rằng, ngày nay lĩnh vực thẩm định giá dần khẳng định được chức năng của mình và tính hiệu quả của nó đối với nền kinh tế và từng đối tượng khách hàng. Không phải bỗng nhiên mà lĩnh vực thẩm định giá trở nên nóng và phát triển như hiện này, điều này là một sự khẳng định đối với vai trò của thẩm định giá trong nền kinh tế của nước ta, biểu hiện cụ thể là:

– Thẩm định giá góp phần đảm bảo tính chính xác của việc xác định giá trị của tài sản trong nhiều mục đích công.

– Thẩm định giá làm giảm gánh nặng và hạn chế rủi ro trong trách nhiệm xác định giá trị tài sản của khách hàng.

– Thẩm định giá đã trở thành một phương thức giải quyết bất đồng giữa các bên trong tranh chấp giá trị tài sản.

– Thẩm định giá góp phần làm minh bạch thị trường, thúc đẩy sự phát triển hiệu của thị trường.

Tiêu chuẩn thẩm định giá về thu thập và phân tích thông tin tài sản

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư quy định tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam về thu thập và phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá.

Theo dự thảo, căn cứ vào mục đích thẩm định giá, cơ sở giá trị thẩm định giá, mức độ sẵn có của các dữ liệu, thông tin, người thu thập thông tin tiến hành thu thập các thông tin phù hợp với phương pháp thẩm định giá dự kiến lựa chọn. Đối với một số nhóm tài sản có thể thu thập một hoặc một số nội dung thông tin sau:

Đối với bất động sản (đất; nhà ở; bất động sản thương mại; bất động sản công nghiệp; bất động sản nghỉ dưỡng..), thu thập thông tin về: Vị trí và hình thái của bất động sản (trên các văn bản pháp lý như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Bản đồ quy hoạch chi tiết khu vực… và trên thực tế hiện trạng); kết cấu hạ tầng (cấp và thoát nước, viễn thông, điện, đường, khu để xe); cảnh quan, môi trường xung quanh; khoảng cách từ vị trí bất động sản đến những địa điểm giao thông công cộng, cửa hàng, trường học, công viên, bệnh viện, những trục đường chính…

Đối với động sản là máy, thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư, hàng hóa… mới, chưa sử dụng: Thực hiện thu thập thông tin về đặc điểm pháp lý (nếu có), số liệu về chỉ tiêu và đặc điểm kinh tế-kỹ thuật, năm sản xuất, nhà sản xuất, xuất xứ, số lượng, nhãn hiệu, công dụng, kích thước, chất liệu, điều kiện thanh toán và dịch vụ kèm theo (chế độ bảo trì, bảo hành, lắp đặt, thiết bị thay thế kèm theo…).

Đối với động sản là máy, thiết bị, phương tiện vận tải… đã qua sử dụng, thu thập thêm các thông tin về người sở hữu, năm đưa vào sử dụng, hiện trạng sử dụng, mức độ hao mòn, mức độ tiêu hao vật tư, nguyên nhiên liệu, công suất thực tế và các đặc điểm khác ảnh hưởng đến giá trị của tài sản thẩm định giá…

Đối với tài sản tài chính (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, các loại trái phiếu khác, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ quỹ, chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký, chứng khoán phái sinh, các khoản cho vay và phải thu, cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi, khoản nợ…): Thu thập thông tin liên quan đến tính pháp lý của tài sản; thông tin về thị trường, thu nhập từ tài sản tài chính mang lại; chính sách thuế, phí, lệ phí và các điều kiện giao dịch của tài sản; quyền lợi và lợi ích có được từ việc nắm giữ tài sản, tính thanh khoản của tài sản tài chính.

Phân tích thông tin theo 4 nhóm

Dự thảo nêu rõ, phân tích thông tin là quá trình thẩm định viên tổng hợp, xem xét, đánh giá toàn bộ các thông tin đã thu thập được phục vụ cho quá trình thẩm định giá, qua đó đánh giá tác động của các yếu tố đến việc thẩm định giá và kết quả thẩm định giá cuối cùng.

Trong quá trình phân tích thông tin, thẩm định viên có thể đưa ra những giả thiết đối với những thông tin thu thập còn hạn chế, chưa chắc chắn mà không thể khắc phục được, tuy nhiên phải bảo đảm những giả thiết này là hợp lý, chặt chẽ, có cơ sở và phù hợp với mục đích thẩm định giá.

Các thông tin thu thập được phân tích theo các nhóm nội dung sau:

Phân tích những thông tin cơ bản về cuộc thẩm định giá: khách hàng thẩm định giá; mục đích thẩm định giá; thời điểm thẩm định giá; căn cứ pháp lý để thẩm định giá; cơ sở giá trị thẩm định giá.

Phân tích những thông tin về đặc điểm pháp lý, kinh tế – kỹ thuật thuật của tài sản thẩm định giá.

Phân tích những thông tin về thị trường; thực trạng và triển vọng cung cầu, các lực lượng tham gia thị trường, điều kiện giao dịch, sở thích và động thái của người mua – người bán tiềm năng; các tài sản thay thế hoặc cạnh tranh; sự thay đổi của các chính sách và pháp luật; sự phát triển kỉnh tế, xã hội, khoa học – công nghệ và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá trị tài sản…

Phân tích về việc sử dụng tài sản tốt nhất và có hiệu quả nhất (nếu có).

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân vớidự thảonày tại Cổng Thông tin điện tử của Bộ.

Lan Phương

Các khoản nợ xấu phải thẩm định giá khởi điểm khi đấu giá

Ngày 16/5/2017, Chính phủ ban hành Nghị định 61/2017/NĐ-CP quy định chi tiết Khoản 4 Điều 65 Luật Đấu giá tài sản về thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Theo đó, những trường hợp phải thẩm định giá khởi điểm bao gồm:

– Khoản nợ xấu được Công ty quản lý tài sản mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt mà khi xác định giá khởi điểm, Công ty không thỏa thuận được với tổ chức tín dụng bán nợ về giá khởi điểm.

– Khoản nợ xấu được Công ty quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường.

– Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, Công ty quản lý tài sản không thỏa thuận được với bên bảo đảm về giá khởi điểm.

Việc lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá trong các trường hợp nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 5 Nghị định này.

Nghị định 61/2017/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/7/2017 và bãi bỏ Khoản 1 Điều 27 Nghị định 53/2013/NĐ-CP .

Căn cứ thẩm định giá khoản nợ tín dụng

– Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ tín dụng.

Dự thảo quy định rõ, giá trị khoản nợ được xác định dựa trên một hoặc nhiều căn cứ sau:

– Số dư nợ tại thời điểm thẩm định giá theo lãi suất đang áp dụng trên hợp đồng tín dụng hoặc thỏa thuận cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, phụ lục hợp đồng tín dụng (nếu có) của tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá;

– Giá trị tài sản bảo đảm;

– Giá trị các khoản có thể thu hồi được từ khách nợ;

– Lãi dự kiến phát sinh đến khi thanh toán hết giá trị khoản nợ được mua theo lãi suất dự kiến sẽ áp dụng được quy định trên hợp đồng tín dụng hoặc thỏa thuận cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, phụ lục hợp đồng tín dụng (nếu có) hoặc lãi suất khác có thể áp dụng cho khách nợ…

Bên cạnh đó, theo dự thảo, tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của các tài liệu, hồ sơ cần thu thập trong thẩm định giá khoản nợ bao gồm:

– Hồ sơ pháp lý của khách nợ.

– Hồ sơ vay vốn gồm Hợp đồng tín dụng hoặc thỏa thuận cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, phụ lục hợp đồng tín dụng (nếu có).

– Xác nhận của tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá về số tiền nợ gốc, lãi và các nghĩa vụ tài chính khác liên quan đến khoản nợ mà khách nợ chưa trả theo hợp đồng tín dụng hoặc thỏa thuận cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, phụ lục hợp đồng tín dụng (nếu có) tại thời điểm thẩm định giá.

– Kịch bản bán hoặc thanh lý khoản nợ. Hồ sơ tài chính và sản xuất kinh doanh (nếu có) của khách nợ.

– Hồ sơ bảo đảm tiền vay gồm hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm, cam kết bảo lãnh, các giấy tờ, tài liệu liên quan đến quá trình nhận bảo đảm (nếu có).

– Hồ sơ khác có liên quan (nếu có) gồm báo cáo đánh giá của bên chủ nợ liên quan đến việc xử lý khoản nợ (hồ sơ pháp lý, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ, thời gian và khả năng thu hồi nợ); báo cáo về giá trị ghi sổ khoản nợ, năng lực hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của bên khách nợ; báo cáo đánh giá rủi ro có thể phát sinh trong việc bán nợ, phương thức thanh toán, chuyển giao khoản nợ.

– Các tài liệu liên quan khác.

MAI HUỆ

Sửa Luật Giá: Nâng cao tiêu chuẩn thẩm định viên về giá

– Bộ Tài chính đề xuất tăng cường tiêu chuẩn, điều kiện của thẩm định viên về giá, gắn với đó là nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của thẩm định viên trong hoạt động thẩm định giá.

Tại dự thảo Luật Giá (sửa đổi) đang được lấy ý kiến góp ý rộng rãi của nhân dân, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung một số quy định nhằm xử lý các chồng chéo, vướng mắc trong quản lý thẩm định viên về giá; thực hiện chuyên môn hóa hoạt động nghề nghiệp của thẩm định viên về giá theo năng lực và kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ thẩm định giá để hướng đến tính chuyên nghiệp, chuyên sâu.

Đồng thời tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Bổ sung, hoàn thiện các quy định về giám sát, quản trị doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp được thành lập theo mô hình công ty cổ phần.

Theo đó, về hoạt động thẩm định giá: Dự thảo Luật sửa đổi quy định về hoạt động thẩm định giá hiện đang được quy định tại Luật giá năm 2012 theo hướng khẳng định hoạt động thẩm định giá bao gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá và thẩm định giá nhà nước, đồng thời nhóm các quy định về tài sản thẩm định giá và giá trị của kết quả thẩm định giá vào trong quy định về hoạt động thẩm định giá để bảo đảm tính thống nhất của điều khoản.

Về dịch vụ thẩm định giá, dự thảo Luật sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành để củng cố một số tiêu chuẩn đối với thẩm định viên về giá, các điều kiện tiêu chuẩn hành nghề đối với thẩm định viên về giá, tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, nhất là trong quá trình hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá; qua đó, siết chặt quản lý hoạt động thẩm định giá nhằm một mặt đáp ứng yêu cầu đặt ra trong việc củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá, góp phần chống tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực giá; một mặt bảo đảm tính tương đồng đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính tương tự.

Thi cấp thẻ thẩm định viên về giá, người dự thi phải có 36 tháng làm việc thực tế

Về thẩm định viên về giá: Dự thảo Luật quy định thẩm định viên về giá là người có Thẻ thẩm định viên về giá đang hành nghề tại doanh nghiệp để thống nhất về mặt nguyên lý đã là thẩm định viên thì người đó phải đang hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá.

Về Thẻ thẩm định viên về giá: Dự thảo Luật bổ sung quy định khi tham gia thi cấp thẻ thẩm định viên về giá, người dự thi phải đáp ứng tiêu chuẩn 36 tháng kinh nghiệm là thời gian làm việc thực tế tại doanh nghiệp thẩm định giá. Đồng thời, tại Thẻ thẩm định viên về giá sẽ thể hiện rõ chuyên môn của thẩm định viên theo lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp.

Về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung điều kiện các thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải có ít nhất 05 thẻ thẩm định viên về giá, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải là người có thẻ thẩm định viên về giá tài sản và doanh nghiệp, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thì tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn, cổ đông là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Quy định vốn pháp định của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là 5 tỷ đồng trở lên.

Về chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung điều kiện các thẩm định viên về giá hành nghề tại chi nhánh phải có ít nhất 03 Thẻ thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp và các chi nhánh khác.

Về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá để củng cố các chế tài xử lý trong trường hợp doanh nghiệp có biến động về thẩm định viên về giá ảnh hưởng đến điều kiện hoạt động.

Về đánh giá hoạt động dịch vụ thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định về đánh giá hoạt động dịch vụ thẩm định giá nhằm tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua hoạt động phát hiện và ngăn ngừa rủi ro.

Về cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá: Dự thảo Luật bổ sung một điều quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá trên cơ sở quy định về giải quyết tranh chấp tại nghị định.

Khánh Linh

Đề xuất quy tắc đạo đức của thẩm định viên về giá

Quy tắc đạo đức hành nghề đối với thẩm định viên về giá bao gồm các yêu cầu: Chính trực; độc lập, khách quan; năng lực chuyên môn; bảo mật; hành vi chuyên nghiệp.

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam về quy tắc đạo đức của thẩm định viên.

Theo dự thảo, quy tắc đạo đức hành nghề đối với thẩm định viên về giá bao gồm các yêu cầu: Chính trực; độc lập, khách quan; năng lực chuyên môn; bảo mật; hành vi chuyên nghiệp.

Chính trực là thẳng thắn và trung thực trong các mối quan hệ công việc và chuyên môn. Thẩm định viên không được sử dụng những thông tin sai lệch, hoặc các thông tin được đưa ra một cách cẩu thả, thiếu cơ sở. Thẩm định viên không được bỏ bớt các thông tin cần thiết mà nếu thiếu có thể gây hiểu nhầm cho người sử dụng báo cáo kết quả thẩm định giá.

Trường hợp phát hiện có nội dung sai lệch liên quan đến kết quả thẩm định giá đã phát hành thì thẩm định viên phải lập tức thông báo với khách hàng thẩm định giá và có biện pháp điều chỉnh phù hợp.

Độc lập, khách quan

Thẩm định viên về giá khi đưa ra các xét đoán chuyên môn, không thiên vị, không bị ảnh hưởng bởi các xung đột lợi ích, không bị tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm sai lệch kết quả thẩm định giá.

Đối với các tình huống làm giảm tính độc lập và khách quan, cần áp dụng các biện pháp phòng vệ, đánh giá mức độ ảnh hưởng và thông báo cho khách hàng (và người sử dụng kết quả thẩm định giá) trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc bảo mật. Trường hợp không có các biện pháp phòng vệ để hạn chế hoặc loại bỏ mối đe dọa đến tính độc lập và khách quan thì cần cân nhắc từ chối thực hiện cuộc thẩm định giá đó.

Khi thẩm định giá thường xuyên, định kỳ cho cùng một tài sản, doanh nghiệp thẩm định giá cần có các biện pháp đảm bảo tính khách quan, độc lập của kết quả thẩm định giá như phân công người rà soát kết quả thẩm định giá hoặc định kỳ thay đổi người tiến hành hoạt động thẩm định giá cho tài sản đó.

Năng lực chuyên môn

Dự thảo nêu rõ, thẩm định viên về giá cần có hiểu biết về pháp luật, kiến thức chuyên môn về thẩm định giá và kỹ năng thực hành cần thiết để thực hiện thẩm định giá.

Có năng lực chuyên môn và duy trì năng lực chuyên môn của bản thân trong hoạt động thẩm định giá thông qua việc học hỏi, trau dồi các kiến thức mới về thẩm định giá cũng như rèn luyện kỹ năng trong việc tiến hành hoạt động thẩm định giá.

Đảm bảo những người trợ giúp mình trong công việc chuyên môn cũng phải được đào tạo và có năng lực chuyên môn phù hợp để làm việc dưới sự giám sát chặt chẽ của thẩm định viên.

Trường hợp đánh giá thấy chưa đủ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết để thực hiện một cuộc thẩm định giá cụ thể thì phải từ chối thẩm định giá.

Bảo mật thông tin

Thẩm định viên về giá không được tiết lộ các thông tin được khách hàng yêu cầu bảo mật mà biết được khi thực hiện hoạt động thẩm định giá khi không được sự đồng ý của khách hàng thẩm định giá hoặc không được pháp luật cho phép. Trường hợp đã kết thúc cuộc thẩm định giá thì vẫn phải tuân thủ yêu cầu bảo mật.

Không được sử dụng các thông tin được khách hàng yêu cầu bảo mật có được trong quá trình cung cấp dịch vụ thẩm định giá để phục vụ lợi ích bản thân hoặc lợi ích của bên thứ ba.

Cần có những biện pháp để tránh trường hợp những người giúp việc cho cuộc thẩm định giá, các chuyên gia tư vấn tiết lộ thông tin cần được bảo mật.

Hành vi chuyên nghiệp

Thẩm định viên về giá thể hiện sự chú tâm và nỗ lực khi cung cấp dịch vụ thẩm định giá cho khách hàng, đảm bảo việc thẩm định giá tuân thủ quy định của hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Thể hiện trách nhiệm đối với khách hàng, cũng như lợi ích công chúng. Các nhận định chuyên môn cần cân nhắc đến tác động ở phạm vi rộng (nếu có) đối với bên thứ ba như các cổ đông của doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư vào các quỹ.

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo này tại Cổng Thông tin điện tử của Bộ.