Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 10 2024

Quản lý Nhà nước về giá

Thẩm định giá 22 dự án trong quý 4-2024 để TP.HCM thu ngân sách 25.483 tỉ đồng
Để kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân và lợi ích công cộng, với tư cách tổ chức quyền lực chính trị công đặc biệt, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá.
1. Nội dung quản lý nhà nước về giá
Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) quản lý nhà nước về giá với các nội dung sau :
  • Nghiên cứu, xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp về giá phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ.
  • Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giá.
  • Quyết định giá hàng hoá, dịch vụ quan trọng, độc quyền.
  • Quy định tiêu chuẩn Thẩm định viên về giá; tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ thẩm định giá; cấp và thu hồi thẻ Thẩm định viên về giá.
  • Kiểm soát giá độc quyền và chống bán phá giá.
  • Thu thập, phân tích và thông báo thông tin, dự báo giá thị trường trong nước và thế giới.
  • Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực giá.
  • Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá.
2. Thẩm quyền quản lý nhà nước về giá
  • Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá trong phạm vi cả nước.
  • Cơ quan quản lý nhà nước về giá chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giá.
  • Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về giá trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá thuộc ngành mình theo phân cấp quản lý giá của Chính phủ. Cụ thể:
3. Thẩm quyền quản lý nhà nước về giá của Bộ Tài chính:
  • Trình Chính phủ chính sách và các biện pháp về giá.
  • Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giá.
  • Tổ chức chỉ đạo hướng dẫn thực hiện chính sách, biện pháp về giá và các quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
  • Quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá theo quy định của pháp luật.
  • Thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về giá: kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân chấp hành các quy định của pháp luật về giá và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến quản lý nhà nước về giá theo thẩm quyền.
  • Tổ chức thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giá quy định tại Luật Giá và nội dung khác thuộc lĩnh vực giá theo nhiệm vụ, thẩm quyền được giao.
4. Thẩm quyền quản lý nhà nước về giá của các Bộ, cơ quan ngang Bộ:
  • Trình Chính phủ chính sách và các biện pháp về giá hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
  • Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá theo thẩm quyền.
  • Tổ chức chỉ đạo thực hiện chính sách, biện pháp giá và các quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
  • Quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá theo thẩm quyền.
  • Kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân chấp hành các quy định của pháp luật về giá và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến quản lý nhà nước về giá thuộc ngành mình.
5. Thẩm quyền quản lý nhà nước về giá của UBNDtỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá tại địa phương theo phân cấp quản lý giá của Chính phủ. Cụ thể:
  • Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá theo thẩm quyền.
  • Tổ chức chỉ đạo thực hiện chính sách, biện pháp giá và các quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
  • Quyết định giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá theo thẩm quyền.
  • Kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân hoạt động trên địa bàn tỉnh, thành phố chấp hành các quy định của pháp luật về giá và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến quản lý nhà nước về giá tại địa phương; xử lý vi phạm pháp luật về giá theo thẩm quyền.

Phân biệt định giá và thẩm định giá tài sản.

Dịch vụ thẩm định giá nhà đất uy tín TP HCM
1. Định giá
Định giá có thể được hiểu là việc đánh giá giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định.
Khoản 9 Điều 4 Luật Kinh doanh bất động sản quy định: « Định giá bất động sản là hoạt động tư vấn, xác định giá của một bất động sản cụ thể tại một thời điểm xác định.»
Như vậy, định giá theo Luật Kinh doanh bất động sản là hoạt động tư vấn, xác định giá của một tài sản cụ thể tại một thời điểm xác định.
Tóm lại: Định giá tài sản là việc tư vấn, định các mức giá cụ thể cho từng loại tài sản làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản, hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán phải thực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi.
2. Thẩm định giá
Hiện nay đang tồn tại nhiều quan niệm về thẩm định giá. Song dưới góc độ pháp lý, ở Việt Nam hiện nay, thẩm định giá được hiểu như sau :
Thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế
Thẩm định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ được hiểu là quá trình xác định giá thị trường của tài sản (hữu hình, vô hình, động sản, bất động sản), hàng hóa, dịch vụ, là việc đánh giá và đánh giá lại giá trị tài sản theo giá thị trường tại một thời điểm theo một chuẩn mực nhất định. Hiểu một cách thực chất, thẩm định giá là xác định giá cả của tài sản trên thị trường tại một thời điểm. Nó chính là việc xác định giá trị để tìm ra giá cả của tài sản định bán trong một tập hợp giả định các điều kiện trên thị trường nhất định. Công việc thẩm định giá do các nhà chuyên môn được đào tạo, có kiến thức, kinh nghiệm, có tính trung thực, nghề nghiệp về giá thực hiện. Nói cách khác, thẩm định giá do các thẩm định viên về giá thực hiện theo các tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định. Kết quả của việc xác định giá cả do các thẩm định viên về giá thực hiện là cơ sở để các tổ chức, cá nhân có tài sản định ra mức giá phù hợp trong giao dịch.
3. Phân biệt hai khái niệm
Sự khác nhau giữa định giá và thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
  • Thứ nhất. Bản chất, mục đích định giá và thẩm định giá
Định giá là việc đánh giá giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định còn thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế.
Định giá thông qua các hình thức định giá cụ thể, giá chuẩn, khung giá, giá giới hạn (giá tối thiểu, giá tối đa); thẩm định giá chỉ xác định duy nhất một mức giá tài sản tại một địa điểm và thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá, kết quả thẩm định giá được đưa ra chủ yếu là mang tính tư vấn.
Định giá tài sản để đưa tài sản vào lưu thông trong kinh tế thị trường, trên cơ sở đó thúc đẩy thị trường phát triển. Thẩm định giá đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản để tư vấn cho người có yêu cầu thẩm định giá sử dụng vào những mục đích nhất định như mục đích bảo toàn tài sản, mua bán tài sản, thế chấp tài sản, tính thuế, thanh lý tài sản,…
  • Thứ hai. Nguyên tắc
Định giá tài sản phải bảo đảm nguyên tắc:
– Định giá tài sản phải dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, tính chất, vị trí, quy mô, thực trạng của tài sản và giá thị trường tại thời điểm định giá ;
– Định giá tài sản phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân thủ pháp luật.
Thẩm định giá theo nguyên tắc:
– Tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam ;
– Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả thẩm định giá ;
– Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ và tính trung thực, khách quan của hoạt động thẩm định giá ;
– Bảo mật các thông tin của đơn vị được thẩm định giá, trừ trường hợp đơn vị được thẩm định giá đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác.
  • Thứ ba, Phương pháp định giá, thẩm định giá
Định giá theo các phương pháp cơ bản như: phương pháp so sánh trực tiếp; phương pháp thu nhập;…
Thẩm định giá theo các phương pháp cơ bản như: Phương pháp so sánh; phương pháp chi phí; phương pháp thu nhập; phương pháp lợi nhuận; phương pháp thạng dư;…
  • Thứ tư. Chủ thể thực hiện
Định giá do Nhà nước thực hiện với tư cách tổ chức quyền lực công, thông qua đó thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và với cả tư cách chủ sở hữu (đối với tài sản của Nhà nước). Định giá còn do các tổ chức, các nhân thực hiện với tư cách chủ sở hữu tài sản hoặc với tư cách người có quyền tài sản hoặc với tư cách người cung cấp dịch vụ định giá.
Thẩm định giá phải do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện, thông qua hoạt động của thẩm định viên về giá.

Pháp luật về tài sản và quyền tài sản

Hồ sơ thẩm định giá được lưu trữ tối thiểu 10 năm
1. Khái niệm tài sản
Định giá, thẩm định giá bất kỳ một tài sản nào thì người định giá, thẩm định giá cũng cần biết rõ tài sản đó là gì, đặc điểm về mặt kinh tế – kỹ thuật cũng như về mặt pháp lý của tài sản.
“Tài sản là của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”
Nhìn tổng quát, tài sản được hiểu là tất cả các nguồn lực hữu hình hoặc vô hình, bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản của một chủ thể nhất định, có khả năng mang lại lợi ích cho các chủ thể đó.
Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Tài sản kể trên được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm:
Vật: gồm cả vật đang có và vật sẽ được hình thành trong tương lai (ví dụ công trình đang được xây dựng, tàu thuyền đang đóng hoặc sẽ đóng, hoa quả sẽ có,…);
Tiền, giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu, công trái, séc, giấy ủy nhiệm chi, tín phiếu, sổ tiết kiệm,…);
Các quyền tài sản (quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, quyền sở hữu trí tuệ,…)
2. Phân loại tài sản
Phân loại tài sản có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động định giá, thẩm định giá phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng loại tài sản nhất định.
  • Theo tính chất của tài sản, tài sản được phân thành: Bất động sản và động sản
Bất động sản:Bất động sản là tài sản có tính bất động, tính không đồng nhất, tính khan hiếm, tính bền vững.
Bất động sản là các tài sản bao gồm:
– Đất đai
– Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền
với nhà, công trình xây dựng đó;
– Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
– Các tài sản khác do pháp luật quy định.
Khi định giá, thẩm định giá bất động sản, cần xác định bất động sản đó được đưa vào kinh doanh hay không được đưa vào kinh doanh.
Theo Luật Kinh doanh bất động sản hiện hành thì các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh bao gồm :
– Các loại nhà, công trình xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng;
– Quyền sử dụng đất được tham gia thị trường bất động sản theo quy định của pháp luật về đất đai;
– Các loại bất động sản khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội, thị trường bất động sản và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ quy định cụ thể danh mục các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh.
Bất động sản đưa vào kinh doanh phải đủ các điều kiện do pháp luật quy định, cụ thể:
Đối với nhà, công trình xây dựng đưa vào kinh doanh phải có các điều kiện sau đây:
– Thuộc đối tượng được phép kinh doanh;
– Đối với nhà, công trình xây dựng mới phải bảo đảm chất lượng theo quy định của pháp luật về xây dựng; đối với nhà, công trình xây dựng đã qua sử dụng thì yêu cầu về chất lượng do các bên thỏa thuận trong hợp đồng;
– Không có tranh chấp về quyền sở hữu;
– Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Không nằm trong khu vực cấm xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng;
– Có hồ sơ bao gồm giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng và quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định của pháp luật đối với nhà, công trình xây dựng đã có sẵn; giấy phép xây dựng hoặc hồ sơ dự án và thiết kế bản vẽ thi công đã được phê duyệt đối với nhà, công trình đang xây dựng; thiết kế bản vẽ thi công, hồ sơ hoàn công và biên bản nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng đối với nhà, công trình xây dựng thuộc dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng; hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công và tiến độ xây dựng nhà, công trình xây dựng đã được phê duyệt đối với nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai.
Đối với quyền sử dụng đất đưa vào kinh doanh phải có các điều kiện sau đây:
– Thuộc đối tượng được phép kinh doanh;
– Có giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
– Không có tranh chấp;
– Trong thời hạn sử dụng đất;
– Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Trường hợp chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất thuộc dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp thì phải có các công trình hạ tầng tương ứng với nội dung và tiến độ của dự án đã được phê duyệt.
Đối với các bất động sản khác được đưa vào kinh doanh phải có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ.
Động sản:động sản là tài sản có tính di dời, tính đồng nhất, phổ biến, kém bền vững. Nói chung, động sản là những tài sản không phải là bất động sản. Động sản là những tài sản di dời được (như xe ô tô, tàu, thuyền, hoa lợi,…).
Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động định giá, thẩm định giá tài sản.
Bất động sản có tính bất động, tính không đồng nhất, tính khan hiếm, tính bền vững, còn động sản thì có tính di dời, tính đồng nhất, phổ biến, kém bền vững,…Những đặc điểm, tính chất của động sản hoặc bất động sản ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động định giá, thẩm định giá tài sản là động sản hay bất động sản.
3. Khái niệm về sở hữu và quyền sở hữu
Sở hữulà quan hệ giữa người với người (quan hệ xã hội) đối với tài sản, trong đó chỉ rõ tài sản, tư liệu sản xuất và thành quả lao động thuộc về ai.
Sở hữu thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội, phương thức chiếm hữu và phân phối trong từng hình thái kinh tế – xã hội và quan hệ xã hội nhất định. Sở hữu thể hiện quan hệ giữa người với người trong quá trình tạo ra và phân phối các thành quả vật chất.
Sở hữu là quan hệ kinh tế khách quan, quan hệ xã hội quan trọng đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh, từ đó xuất hiện khái niệm quyền sở hữu.
Quyền sở hữulà quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản, xuất hiện trên cơ sở của các quy phạm pháp luật.
Nội dung quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
  • Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản.
Trong trường hợp chủ sở hữu chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Việc chiếm hữu của chủ sở hữu không bị hạn chế, gián đoạn về thời gian, trừ trường hợp chủ sở hữu chuyển giao việc chiếm hữu cho người khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Khi chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản cho người khác thì người được uỷ quyền thực hiện quyền chiếm hữu tài sản đó trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
  • Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Quyền sử dụng tài sản có thể được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Người không phải là chủ sở hữu có quyền sử dụng tài sản đúng tính năng, công dụng, đúng phương thức.
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo quy định của pháp luật.
  • Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Người được chủ sở hữu uỷ quyền định đoạt tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở hữu.
Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật.
Khi định giá hoặc thẩm định giá tài sản, cần phải xác định người có tài sản có quyền sở hữu tài sản hay chỉ có phần quyền trong các quyền sở hữu. Chẳng hạn, ở Việt Nam, đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất. Do vậy, Nhà nước có và thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu khi định giá hoặc yêu cầu thẩm định giá đối với đất…
4. Quyền tài sản
Nền kinh tế càng phát triển càng góp phần phân tách nhanh chóng các quyền của chủ sở hữu, làm cho chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ngày càng được các chủ thể khác nhau thực hiện, từ đó, càng ngày khái niệm sở hữu hầu như càng mất ý nghĩa, thay vào đó là sự tập hợp của các quyền tài sản. Khi nghiên cứu về quyền tài sản, đã có tác giả viết: “Quyền tài sản có thể hiểu là cách ứng xử của con người đối với nhau liên quan đến tài sản. Pháp luật quy định mối quan hệ giữa con người đối với nhau đối với tài sản, chứ không quy định quan hệ giữa con người với tài sản. Trong quyền tài sản bao giờ cũng có hàm ý tập trung quyền kiểm soát cho người này và giới hạn hoặc loại trừ quyền đó đối với người khác”
Theo một lý thuyết của Harold Demsetz (1967), quyền tài sản được hiểu là tập hợp của rất nhiều quyền và lợi ích, trong đó có các quyền cơ bản như quyền kiểm soát việc sử dụng tài sản, quyền thụ hưởng lợi nhuận thu được từ việc sử dụng tài sản, các quyền chuyển nhượng, thế chấp tài sản. Theo lý thuyết này, một quyền tài sản đương nhiên có thể bị kiểm soát và chia sẻ lợi ích bởi nhiều chủ thể.
Ở Trung Quốc, vấn đề quyền tài sản được nghiên cứu và đề cập một cách rõ ràng, họ cho rằng : «Quyền tài sản là tập hợp một nhóm quyền lợi với tài sản bao gồm quyền sở hữu, quyền kinh doanh, quyền sử dụng, xử lý và quyền thu lợi. Quyền sở hữu là cơ sở của chế độ quyền tài sản. Quyền kinh doanh bao gồm các quyền sử dụng, quyết định xử lý…Quyền thu lợi là sự thực hiện về kinh tế của quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Quan hệ quyền tài sản là quan hệ hành vi chế ước thừa nhận lẫn nhau tạo nên khi chiếm hữu và sử dụng, thể hiện mối quan hệ giữa người với người quyết định mọi hành vi và quan hệ kinh tế. »
Theo pháp luật Việt Nam, quyền tài sản được hiểu là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.
Chủ sở hữu tài sản thì có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật.
Bộ luật Dân sự hiện hành quy định các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản bao gồm :
  • Quyền sử dụng đất;
  • Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề: chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để bảo đảm các nhu cầu của mình về lối đi, cấp thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thỏa thuận khác.
  • Các quyền khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật (Quyền sở hữu trí tuệ, quyền đòi nợ…).
Định giá, thẩm định giá quyền tài sản là hoạt động phức tạp, cần dựa trên những cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học nhất định. Khi định giá, thẩm định giá quyền sử dụng đất cần dựa trên các quy định của Luật Đất đai và các quy định khác liên quan. Định giá, thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ cần dựa trên các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Luật dân sự,…
Trong kinh tế thị trường, khi định giá, thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ cần xác định rõ nội dung của quyền sở hữu trí tuệ.
  • Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
  • Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
  • Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
  • Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ.
Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;
Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;
Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;
Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.
Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ.
Định giá, thẩm định giá một tài sản, trước hết, cần xác định tài sản này thuộc quyền sở hữu của ai? Một tổ chức, cá nhân nhất định có quyền sở hữu hay có quyền tài sản nhất định đối với tài sản đó.
5. Các hình thức sở hữu
Xác định hình thức sở hữu đối với tài sản có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động định giá, thẩm định giá tài sản. Chẳng hạn, tài sản thuộc sở hữu nhà nước phải do Nhà nước định giá, trong những trường hợp nhất định tài sản nhà nước phải được thẩm định giá. Tài sản thuộc sở hữu tư nhân do chủ sở hữu định giá (trừ những tài sản Nhà nước định giá),…
Theo Bộ luật dân sự hiện hành, ở Việt Nam hiện nay có các hình thức sở hữu sau :
  • Sở hữu nhà nước: Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi thiên nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do Pháp luật quy định.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước.
  • Sở hữu tập thể: sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng có lợi.
  • Sở hữu tư nhân: sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
  • Sở hữu chung : sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Tài sản thuộc sở hữu chung là tài sản chung.
  • Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính chị – xã hội: sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội là sở hữu của tổ chức đó nhằm thực hiện mục đích chung quy định trong điều lệ.
  • Sở hữu của tổ chức chính chị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp: sở hữu của tổ chức chính chị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp là sở hữu của cả tổ chức đó nhằm thực hiện mục đích chung của các thành viên được quy định trong điều lệ.

Tài chính bất động sản và đầu tư

Quy định về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện
1 Khái niệm cơ bản 1 số chỉ tiêu tài chính:
  • Lãi vay(interest)Lãi vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng vốn vay trong một thời hạn nhất định, mức lãi xuất đó thực hiện theo mức do tổ chức tín dụng ấn định trong phạm vi khung lãi xuất của Ngân hàng Nhà nước .
  • Lãi suấtlà giá giả cả mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng vốn vay trong một thời hạn nhất định ;
  • Chiết khấu : (Discount)
Là sự cải tiến dựa vào các thay đổi của thu nhập định kỳ và các tài sản được thừa hưởng đổi thành giá trị hiện tại, dựa trên việc giữ lấy các lợi ích có hiệu lực trong tương lai là giá trị ít hơn thu lấy cáclợi ích ngay bây giờ.
Hoặc là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh tóan
  • Tái chiết khấulà việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh tóan.
  • Tỷ lệ chiết khấu:Là tỷ lệ tiền lãi thu được để quy đổi một khoản tiền trong tương lai thành giá trị hiện tại.
  • Chỉ số lạm phát:là tỷ lệ giữa chỉ số giá bình quân có trọng số ( hay gọi là bình quân gia quyền) của một tập hợp hàng hóa của năm hiện hành so với năm trước đó.
  • Tốc độ lạm phát:Là tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ giữa sự thay đổi trong chỉ số giá so với chỉ số giá năm trước đó.
  • NPV: (hay còn gọi là hiện giá ròng- hiện giá thuần) (Net present value)là hiệu số giữa giá trị hiện tại (PV- present value) được tính theo một suất chiết khấu nào đó của dòng ngân lưu thu nhập mà dự án sẽ mang lại trong tương lai so với hiện giá của các khỏan đầu tư phải bỏ ra cho dự án. Nếu xét về tổng các chỉ tiêu NPV có 2 dạngNPVfNPVeta có nhận xét như sau:
    • NPVf (Giá trị hiện tại ròng về tài chính); Khi NPV < 0 không thể đầu tư; NPV = 0 Có thể đầu tư; NPV > 0 Đầu tư hiệu quả
    • NPVe: (Giá trị hiện tại ròng về kinh tế xã hội)
Thông thường,các dự án về đường sá, cầu cống, công trình phúc lợi… xét về hiệu quả tài chính thì không thể đầu tư, còn khi xét về hiệu quả kinh tế – xã hội hay đứng trên quan điểm của nền kinh tế, xem quốc gia như một đơn vị hạch toán thì NPVf < 0 nhưng NPVe > 0 thì dự án vẫn được chấp nhận. Có những trường hợp dự án khi thẩm định về mặt tài chính lại rất tốt (NPVf >0) nhưng dự án đó có thể sẽ không hiệu quả về mặt kinh tế xã hội (NPVe < 0 ).
Tuy nhiên, suất chiết khấu nào lại tùy thuộc vào từng doanh nghiệp, từng dự án cụ thể, không có suất chiết khấu nào có thể dùng chung cho các dự án, các doanh nghiệp…Để đánh giá một dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chủng lọai dự án, cấu trúc nguồn vốn, rủi ro thị trường…; do đó xác định xuất chiết khấu là vấn đề phức tạp đối với các nhà thẩm định.
IRR: (The internal rate of return)Là tỷ suất chiết khấu mà tại đó NPV = 0, tức giá trị hiện tại của dòng thu nhập tính theo tỷ suất chiết khấu đó cân bằng với hiện giá của vốn đầu tư. Hay nói cách khác nó chính là tỷ suất sinh lợi tối thiểu của dự án, khi NPV = 0 thì dự án cũng đã tạo được một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất cũng bằng IRR.
Chú ý:
Nếu IRR lớn hơn suất sinh lời mong muốn (hay suất sinh lời kỳ vọng) hoặc là lớn hơn tỷ suất lãi vay hoặc suất chiết khấu thị trường thì dự án được đánh giá là hiệu quả.
2. Lạm phát:
Lạm phát là một khái niệm dùng để diễn tả sự gia tăng của giá cả hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm hiện hành so với thời điểm trước đó.
Một số khái niệm khác nhau về Lạm phát:
  • Theo quan điểm của J.Bondin và M.Friedman lạm phát là đưa ra nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên.
  • Theo Hơbec Gớtxơ nói: Lạm phát là một dãy tình huống tồn tại của cầu dư thừa, thường do phát hành tiền quá mức.
  • Theo nhà kinh tế học J.P Luthering: Bất kỳ thời kỳ nào mà giá hàng hóa tăng không kể lâu hay mau, có tính chất chu kỳ hay đột xuất đều là Thời kỳ lạm phát.
Tuy nhiên trên đây chỉ là một vài trong khá nhiều quan điểm về lạm phát. Nhưng 2 quan điểm về lạm phát dưới đây được ủng hộ nhiều nhất:
  • Lạm phát là sự tràn ngập tiền thừa trong lưu thông dẫn đến sự gia tăng giá cả hàng hóa.
  • Lạm phát là sự suy giảm quá đáng trong sức mua của đồng tiền. Sức mua của đồng tiền được đo lường bởi sự biến đổi nghịch đảo của mức vật giá chung. Hai quan điểm này tuy khác nhau về nguyên nhân nhưng lại thấy thống nhất về kết quả là lạm phát làm cho giá cả hàng hóa gia tăng.
Có nhiều nguyên nhân liên quan đến tình trạng lạm phát nhưng có 2 nguyên nhân sau là phổ biến nhất:
  • Nguyên nhân liên quan đến số cầu:
  • Nguyên nhân liên quan đến số cung:

Tổng quan về thẩm định giá bất động sản

5 quy tắc đạo đức nghề nghiệp thẩm định giá
1. Các khái niệm về Thẩm định giá
Thẩm định giá là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định.Giáo sư W. Seabrooke – Viện đại học Portsmouth, Vương quốc Anh
Thẩm định giá là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản cụ thể tại một thời điểm, có cân nhắc đến tất cả những đặc điểm của tài sản và cũng như xem xét tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường, bao gồm các loại đầu tư lựa chọn –Giáo sư Lim Lan Yuan – Trường Xây dựng và Bất động sản – Đại học Quốc gia Singapore:
Thẩm định giá là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế –Điều 4 – Pháp lệnh giá số 40
Thẩm định giá Bất động sảnlà sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu bất động sản cụ thể bằng hình thức tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ trong những điều kiện của một thị trường nhất định với những phương pháp phù hợp.
2. Mục đích thẩm định giá bất động sản:
Mục đích thẩm định giá tài sản có thể phân thành rất nhiều loại, có một số loại phổ biến sau đây:
  • Bảo toàn tài sản:Thẩm định giá tài sản phục vụ cho khấu hao tài sản; hoặc Bảo hiểm tài sản, bồi thường và đánh giá tài sản:
  • Mua bán tài sản đơn hạng mục;
  • Biến động chủ quyền tài sản của doanh nghiệp:

Trong các trường hợpDoanh nghiệp góp vốn hợp tác kinh doanh và xí nghiệp liên doanh; Hợp nhất hoặc sát nhập doanh nghiệp; Bán doanh nghiệp; Cho thuê

  • Chuyển nhượng bất động sản:
  • Bồi thường
  • Thế chấp:

Ngân hàng đòi hỏi Doanh nghiệp phải có tài sản, đặc biệt là bất động sản là vật thế chấp. Giá trị vật thế chấp phải thích ứng với giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm thế chấp và thích ứng với tài khoản. Mục đích là để bảo đảm sự an toàn cho ngân hàng. Thực tế an toàn không thể không quyết định bởi tính chuẩn xác của việc Thẩm định giá bất động thế chấp. Vì thế cần phải có chuyên nghiệp Thẩm định giá

  • Xác định giá trị tài sản để cỏ phần hoá:

Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu là một loại qui trình tập trung thị trường tư bản, cho nên doanh nghiệp là người phát hành cổ phiếu phải tính toán giá thành. Người nhận mua là người chủ quyền của cổ phiếu cần phải tận mắt nhìn thấy năng lực chi đều và hiệu suất thu lợi của cổ phiếu.

Về cơ bản mà nói cổ phiếu cũng như lợi tức của cổ phiếu quyết định bởi hiện trạng và triển vọng của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. Bản thân điều đó đã có nhiều nhân tố cần tới Thẩm định giá.
  • Hạch toán kế toán
Thuế khóa quốc gia đối với tài sản và tài nguyên bao gồm thuế đất, thuế nhà, thuế di sản, thuế tặng phẩm … là lấy bản thân làm đối tượng (ở đây không bao gồm tài sản chuyển nhượng, cho thuê làm đối tượng của thuế) các loại thuế đó được vận dụng đúng theo trình độ nhất định của các quốc gia. Một số quốc gia lấy giá cả thị trường hiện hành làm cơ sở để tính thuế. Do đó cần phải tiến hành Thẩm định giá nộp thuế. Vì vậy cần có những người chuyên môn tính thuế và cơ quan định thuế.
  • Nghiệp vụ thanh toán
Doanh nghiệp tiến hành thanh quyết toán và thanh toán tài sản, tách hoặc nhập; Những người có quyền lợi hữu quan đòi hỏi lấy tiền đền bù, cho nên đối với tài sản cũng cần tiến hành bán hoặc hóa giá hoặc biến đổi. Như thế cần các nhà chuyên môn Thẩm định giá đưa ra những kết luận Thẩm định giá để thanh toán hiện hành của doanh nghiệp làm căn cứ cho việc xử lý cho các tài sản hiện có.
  • Phục vụ tư vấn
Việc trình bày các đặc tính Thẩm định giá ở trên đều có thể coi như các lĩnh vực đặc thù của phục vụ tư vấn. ở đây nói phục vụ tư vấn không có nghĩa là trực tiếp phục vụ tiến hành các nghiệp vụ tài sản như nêu ở trên mà là tiến hành nghiệp vụ Thẩm định giá tài sản đã phát sinh hoặc sẽ phát sinh mà phục vụ tư vấn cho chủ doanh nghiệp, chủ nợ hay người kinh doanh.

Khái niệm về giá cả, chi phí và giá trị, giá trị thị trường

Khái niệm về giá cả, chi phí và giá trị, giá trị thị trường

1. Khái niệm về giá cả, chi phí và giá trị
Sự không chính xác của ngôn ngữ, đặc biệt trong một cộng đồng quốc tế có thể và dẫn đến sự giải thích sai và sự hiểu lầm. Đây là một vấn đề mà khi từ ngữ thường được sử dụng trong một ngôn ngữ cũng được sự sử dụng cho các ý nghĩa cụ thể trong phạm vi một lĩnh vực nào đó. Điều quan trọng là trong trường hợp này với các thuật ngữ giá cả, chi phí, thị trường và giá trị khi chúng được sử dụng trong lĩnh vực thẩm định giá.
  • Giá cả (Price) là một thuật ngữ chỉ số lượng chào bán, trả mua hay được thanh toán cho một hàng hoá và dịch vụ. Đó là một thực tế lịch sử dù điều đó được thể hiện rộng rãi hay thừa nhận trong cá nhân.
  • Chi phí (cost) là mức giá phải trả cho hàng hoá và dịch vụ hay số lượng yêu cầu để tạo ra hoặc sản xuất hàng hoá hay dịch vụ. Khi hoàn thành, nó là một thực tế lịch sử. Giá cả trả cho một hàng hoá hay dịch vụ trở thành chi phí của nó đối với người mua.
  • Giá trị (Value) là một khái niệm kinh tế đề cập đến mối quan hệ tiền tệ giữa hàng hoá và dịch vụ có sẵn để mua và những người mua người bán chúng. Giá trị không phải là một thực thể mà là sự ước tính giá trị của những hàng hoá và dịch vụ tại một thời điểm nào đó phù hợp với một định nghĩa nhất định về giá trị. Khái niệm kinh tế của giá trị phản ánh quan điểm lợi ích của một thị trường tập trung vào ng
2 Khái niệm về giá trị thị trường BĐS
Giá trị thị trường của một bất đống sản là số tiền ước tính để một bất động sản nên trao đổi vào ngày thẩm định giá giữa một người mua tự nguyện (muốn mua) với một người bán tự nguyện (muốn bán) trong các giao dịch khách quan, trong khoảng thời gian giao dịch đủ dài sau khi đã tìm hiểu kỹ thị trường và các bên hành động một cách hiểu biết lẫn nhau, thận trọng và không áp đặt(Tiêu chuẩn thẩm định giá 2005)
Nội dung trên đây được hiểu như sau:
  • Số tiền ước tính: đây là yếu tố lượng về tiền sẽ được đưa ra trong trao đổi để lấy bất động sản (giá).
  • Người mua tự nguyện và người bán tự nguyện: điều này có nghĩa là cả hai bên đều có thể đưa ra sự lựa chọn và một quyết định khách quan để trao đổi và giao dịch.
  • Khách quan: có nghĩa là không có mối quan hệ, liên hệ hoặc phối hợp giữa các bên để ảnh hưởng đến sự cân nhắc về số tiền mua, bán.
  • Hành động một cách thận trọng: có nghĩa là mỗi bên đã cân nhắc quan điểm nhất định của chính mình và đã cân nhắc lựa chọn khách quan.
  • Hành động không áp đặt: có nghĩa là không có sự thúc ép đặt lên người mua hoặc người bán.
3 Khái niệm về giá trị phi thị trường BDS
Giá trị sử dụng hay giá trị hữu dụng của bất động sản:đó là khả năng thoả mãn nhu cầu của người sử dụng. Mỗi bất động sản có một giá trị chủ quan đối với người đang sử dụng hoặc muốn sử dụng bất động sản đó.
Giá trị đầu tư:là giá trị hiện tại của các quyền trong tương lai về thu nhập do khai thác bất động sản. Giá trị đầu tư bị ảnh hưởng bởI: Khả năng thu hồi vốn của việc khai thác bất động sản nhanh hay chậm; và Thu nhập mang lại do đầu tư vào bất động sản nhiều hay ít. Giá trị đầu tư của một bất động sản thường là khác nhau đối với những nhà đầu tư riêng lẻ khác nhau, trong khi giá trị thị trường chỉ có một.
Giá trị trao đổi hay giá cả bất động sản:đó là một khoản tiền yêu cầu, chào bán hoặc trả cho một bất động sản. Do các động cơ và các mối quan tâm đặc biệt của một người mua và Người bán nhất định, mức giá được trả cho bất động sản có thể có hoặc không có sự liên hệ nào với giá trị có thể được quy cho bất động sản bởi những người khác.
Nói chung giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị bất động sản. Giá cả của một bất động sản cụ thể có thể lớn hơn bằng hay nhỏ hơn giá trị thị trường của bất động sản đó.
Do vậy trước khi thừa nhận giá cả như là chứng cứ thật sự của giá trị thị trường, nhà thẩm định giá phải nghiên cứu kỹ lưỡng các điểm sau.
  • Mối liên hệ giữa các bên trong một giao dịch.
Mối liên hệ giữa các bên có tầm quan trọng trong việc xác định giá bán có phải đúng là chứng cứ thị trường hay không. Chỉ có khi người mua và người bán thực hiện theo một mục đích hợp lý và trên cơ sở khách quan thì mới được coi là chứng cứ thị trường.
  • Các điều khoản liên quan đến việc bán
Các điều khoản bán khác nhau sẽ dẫn đến giá bán khác nhau. Do vậy, nhà thẩm định phải xem xét kỹ các điều khoản bán để xác định chứng cớ thị trường.
  • Điều kiện thị trường có là bình thường hay không bình thường.
Thị trường là bình thường có nghĩa là khi cung và cầu của thị trường cân bằng, và khi sự trả giá không phản ánh một giá tăng cao do sự khan hiếm của cung, hoặc không là một giá thấp do cung quá mức. Đồng thời giao dịch là chín muồi, có thông tin tốt và không có bất kỳ sự cưỡng ép nào. Khi đó giá của bất động sản giao dịch mới được coi là chứng cớ của giá trị thị trường.
4. Các yếu tố vĩ mô tác động đến giá bất động sản
  • Chính sách của Nhà nước tác động rất lớn và trực tiếp đến giá bất động sản, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
– Nhà nước ban hành các quy định về quyền sở hữu, thuê đất, sử dụng, chuyển nhượng bất động sản. .
– Nhà nước quy định các chính sách và nghĩa vụ tài chính có liên quan đến quyền sử dụng đất (thuế, tiền thuê, tiền sử dụng đất …) .
– Nhà nước hoạch định và công bố quy hoạch về việc sử dụng đất cho từng khu vực.
  • Các yếu tố kinh tế chung của quốc gia, địa phương
– Các yếu tố này ảnh hưởng đến cầu và qua đó tác động đến cung bất động sản nên ảnh hưởng đến giá bất động sản.
– Giá bất động sản biến động tỷ lệ thuận với giá gia tăng kinh tế cũng như thu nhập quốc dân của quốc gia và địa phương.
– Các yếu tố này gồm sự biến động của tổng sản phẩm quốc gia, thu nhập bình quân đầu người dân, tiết kiệm cá nhân và đầu tư…
  • Cung cầu bất động sản:Cũng giống như bất cứ hàng hoá, dịch vụ nào khác, giá bất động sản trên thị trường là giá cân bằng giữa cung cầu.

Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu gồm có: – Sự tăng trưởng về dân số và các nhu cầu phát triển; – Thu nhập; – Tỉ lệ thất nghiệp; – Đô thị hóa; – Sự phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng;

Các yếu tố ảnh hưởng đến cung bao gồm: – Phát triển kinh tế; – Sự phát triển của kết cấu hạ tầng; – Sự tham gia của Nhà nước; – Các yếu tố xã hội và tâm lý;

5. Các yếu tố vi mô tác động đến giá bất động sản
Chi phí:Là toàn bộ phí tổn mà người đang sử dụng phải bỏ ra để tạo lập hoặc để có được quyền “sở hữu” bất động sản, đây là yếu tố quan trọng mà nhà thẩm định giá phải xem xét khi thẩm định giá bất động sản.

Sự hữu dụng:Xét về mục đích sử dụng một bất động sản có khả năng dùng để ở, để kinh doanh hoặc có thể kết hợp cả hai mục đích. Xét về tính năng hiệu quả một bất động sản có thể sử dụng ngay có giá trị hơn một bất động sản phải tốn chi phí và thời gian sửa chữa để có thể sử dụng được. Do vậy, khi thẩm định giá bất động sản cần chú ý đến đặc điểm của vật kiến trúc và tài sản khác gắn liền với đất.

Các yếu tố vật chất gồm có:– Địa điểm nơi bất động sản tọa lạc; – Hình dáng lô đất; – Quy mô, kích thước của lô đất; – Kiểu nhà, loại nhà, kích thước nhà và tuổi của tài sản; – Môi trường: