Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 10 7, 2023

10 khó khăn, vướng mắc trong sử dụng phương pháp so sánh để thẩm định giá bất động sản

Ts. Lê Minh Toán – Phó Giám đốc Trung tâm, Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính có bài viết chỉ ra 10 khó khăn, vướng mắc trong sử dụng phương pháp so sánh để thẩm định giá bất động sản.

10 khó khăn, vướng mắc trong sử dụng phương pháp so sánh để thẩm định giá bất động sản
Ảnh minh họa.

Sau những gì đã xảy ra đối với hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp thẩm định giá ở Việt Nam những năm vừa qua, rất cần sự tổng kết, đánh giá, nhìn nhận có cơ sở pháp lý, khoa học và công bằng đối với hoạt động thẩm định giá tài sản ở Việt Nam hiện nay.

Từ thực tiễn hoạt động thẩm định giá của các thẩm định viên, các doanh nghiệp thẩm định giá và kết quả kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thẩm định giá những năm qua cho thấy có một số vấn đề khó khăn, tồn tại cần bàn luận, nhận diện rõ nguyên nhân và tìm kiếm những giải pháp khắc phục hiệu quả trong thời gian tới đây.

Từ mục đích đó, việc nhận diện được những khó khăn, vướng mắc trong thẩm định giá tài sản nói chung cũng như trong việc sử dụng phương pháp so sánh để thẩm định giá bất động sản nói riêng là rất cần thiết trong bối cảnh Quốc hội đã ban hành Luật giá năm 2023, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 và đang lấy ý kiến sửa đổi Luật đất đai năm 2013 hiện nay.

Hoạt động thẩm định giá tài sản là khoa học ứng dụng

Như chúng ta đã biết, hoạt động thẩm định giá tài sản là khoa học ứng dụng để ước tính giá trị tài sản thông qua ba cách tiếp cận cơ bản là tiếp cận từ thị trường, tiếp cận từ thu nhập và tiếp cận từ chi phí. Trong đó cách tiếp cận từ thị trường là phổ biến nhất và thường được ưu tiên sử dụng.

Nếu như trong nền kinh tế phi thị trường (nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa) hay trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh xảy ra trong thời gian dài… thì việc sử dụng cách tiếp cận từ thị trường có một số hạn chế có thể dẫn đến kết quả thẩm định giá không phù hợp thị trường; thì ngược lại trong nền kinh tế thị trường có đủ thông tin mua bán minh bạch, việc sử dụng cách tiếp cận từ thị trường cho thấy có nhiều ưu điểm, dễ sử dụng và cho kết quả thẩm định giá phù hợp thị trường hơn.

Trong hoạt động thẩm định giá bất động sản, cách tiếp cận từ thị trường được thực hiện bằng phương pháp so sánh (còn gọi là so sánh trực tiếp, so sánh giá thị trường, so sánh giá giao dịch, so sánh doanh số hay so sánh giá bán).

Thống kê của một số Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho thấy: tỉnh Kiên Giang với tỷ lệ các dự án/khu đất cần định giá sử dụng phương pháp so sánh cao nhất với 85,8% tương ứng với 467 dự án trong tổng số 544 dự án được UBND tỉnh phê duyệt giá đất. Việc áp dụng phương pháp so sánh với tỷ lệ từ 40,3% đến 44,5% tại các tỉnh Hà Nam, Quảng Ninh, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhận diện những khó khăn, vướng mắc

Từ kết quả của việc kiểm tra chấp hành pháp luật về thẩm định giá tại một số doanh nghiệp thẩm định giá, các ý kiến của một số thẩm định viên về giá hành nghề và từ thực tiễn sử dụng phương pháp so sánh để thẩm định giá bất động sản ở Việt Nam những năm qua cho thấy tồn tại một số khó khăn, vướng mắc sau:

Một là,khó khăn trong việc xác định hồ sơ pháp lý của bất động sản có đủ điều kiện để thẩm định giá theo mục đích đã ghi trong hợp đồng thẩm định giá hay không? Có rất nhiều hồ sơ pháp lý của dự án đầu tư bất động sản đủ điều kiện để thẩm định giá cho mục đích đầu tư phát triển dự án bất động sản, nhưng chưa đủ điều kiện để thẩm định giá cho mục đích làm tài sản bảo đảm để phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh rằng việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá hồ sơ pháp lý của các dự án bất động sản là không hề dễ dàng đối với mọi thẩm định viên về giá.

Hai là,khó khăn trong việc phân tích đặc điểm pháp lý, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của bất động sản cần thẩm định giá. Cụ thể là việc xác định khi nào hình thành đầy đủ các quyền tài sản và các quyền này đã sinh ra giá trị có thể xác định được tại thời điểm thẩm định giá hay chưa? Hay như việc phân tích sự cân đối giữa quyền và nghĩa vụ (nghĩa vụ bỏ ra 1 khoản chi phí cụ thể để nhận lại một khoản doanh thu tương xứng). Chúng ta đã biết rằng đối tượng thẩm định giá là bất động sản thường bao gồm đất đai và công trình xây dựng, vật kiến trúc trên đất. Ở Việt Nam các mối quan hệ xoay quanh đất đai luôn rất phức tạp, đa dạng và có nhiều đặc thù như các quy định về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền đối với bất động sản liền kề và các vấn đề về quyền tài sản khác. Các công trình xây dựng, vật kiến trúc trên đất cũng không chỉ đơn thuần là nhà ở, nhà chung cư hay nhà xưởng sản xuất mà còn có thể là cầu cảng, bờ kè chắn sóng biển hay sân vận động v.v…

Ba là,khó khăn trong việc tìm kiếm các bất động sản tương tự để so sánh. Đối với việc khảo sát, thu thập thông tin về các bất động sản là nhà ở, đất ở đô thị v.v… là khá dễ dàng và có sẵn nhiều thông tin bất động sản tương tự có thể sử dụng để so sánh được. Tuy nhiên, đối với đối tượng thẩm định giá là nhóm đất nông nghiệp (đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản … đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh), đất xây dựng công trình sự nghiệp, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp v.v… hay quyền sử dụng đất thuê thì việc tìm kiếm thông tin bất động sản tương tự có thể sử dụng để so sánh được là không hề dễ dàng.

Bốn là,thẩm định viên thường xuyên phải đối mặt với các thông tin ngụy tạo, thông tin bất cân xứng mà thường được gọi là các thông tin đã bị “làm giá bất động sản” hay “thổi giá bất động sản”. Đặc biệt hiện nay ở cục bộ một số thị trường bất động sản mang tính địa phương cao, một số khu đô thị mới chưa có những khu đô thị tương tự v.v… đã bị một số môi giới kinh doanh bất động sản cố tình tạo cầu ảo với các mức giá cao để nhằm đẩy giá bất động sản lên cao bất thường. Dĩ nhiên thời gian sẽ là liều thuốc hữu hiệu để các mức giá bất động sản bất thường đó trở về bình thường nhưng hậu quả pháp lý, kinh tế của nó để lại là không hề nhỏ. Rõ ràng các thẩm định viên về giá đã rất khó khăn để nhận biết và kiểm chứng các thông tin này. Trong khi đó, hiện chưa có quy định cho phép thẩm định viên được tiếp cận trực tiếp với các nguồn thông tin đáng tin cậy, công khai của các giao dịch thành công từ cơ quan quản lý nhà nước như: tra cứu pháp lý, địa chỉ, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thông tin quy hoạch, thông tin từ các Văn phòng đăng ký đất đai, công chứng, cơ quan thuế … Ngay cả khi thu thập được các thông tin về các giao dịch thành công thì đa phần các thông tin về mức giá giao dịch chuyển nhượng này đều không đúng với mức giá thực tế chuyển nhượng. Trường hợp sử dụng các giá chào mua, chào bán trên thị trường thì dễ gặp rủi ro khi sử dụng các thông tin giá ảo, không phù hợp thị trường.

Năm là,khó khăn trong việc khảo sát hiện trạng bất động sản cần thẩm định giá là tài sản thi hành án dân sự, tài sản là tang vật vụ án hình sự hay một số bất động sản đang được sử dụng cho các cơ quan, tổ chức có yêu cầu cao trong việc quản lý trụ sở, văn phòng làm việc. Trong các trường hợp này, thẩm định viên về giá đã đến khảo sát hiện trạng bất động sản nhưng không thể khảo sát bên trong tài sản. Đồng thời việc khảo sát đối với các bất động sản so sánh (nếu có) cũng chỉ là quan sát bên ngoài mà thôi.

Sáu là,Tiêu chuẩn thẩm định giá số 08 ban hành kèm theo Thông tư số 126/2015/TT-BTC ngày 20/8/2015 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn các yếu tố so sánh áp dụng đối với bất động sản: tình trạng pháp lý, cơ sở hạ tầng, khả năng sinh lời, các đặc điểm tự nhiên: vị trí, hình dạng thửa đất, hướng, cảnh quan, môi trường, thiết kế nội thất, ngoại thất v.v… Tuy nhiên một số thẩm định viên chưa so sánh, phân tích hết các yếu tố khác biệt, điều này dẫn đến việc lựa chọn các yếu tố so sánh khác nhau làm cho kết quả thẩm định giá có thể có chênh lệch đáng kể. Ngoài ra, tại một số trường hợp xác định giá trị quyền sử dụng đất, thẩm định viên còn sử dụng tỷ trọng đối với các yếu tố so sánh (vị trí, khả năng sinh lời, chiều rộng mặt tiền…); đây là nội dung không được quy định tại phương pháp so sánh trong Tiêu chuẩn thẩm định giá số 08.

Bảy là,về phương thức điều chỉnh và mức điều chỉnh, phương pháp so sánh tại Tiêu chuẩn thẩm định giá số 08 đã hướng dẫn về phương thức điều chỉnh đối với các yếu tố so sánh theo 02 phương thức: điều chỉnh tuyệt đối và điều chỉnh tương đối, đồng thời hướng dẫn xác định mức điều chỉnh thông qua phân tích các cặp tài sản tương tự (so sánh song đôi, so sánh cặp) hoặc kỹ thuật phân tích thống kê. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai áp dụng cho thấy đối với điều chỉnh tương đối theo tỷ lệ phần trăm thường là ước lượng theo nhận định chủ quan của thẩm định viên mà thiếu số liệu, thông tin thị trường để chứng minh. Có lẽ nguyên nhân tình trạng này là do các thẩm định viên chưa thực hiện thống kê thông tin dữ liệu thị trường để xây dựng nguồn thôn tin dữ liệu đủ lớn để so sánh và phân tích, chứng minh các tỷ lệ điều chỉnh các yếu tố khác biệt của bất động sản so sánh với bất động sản cần thẩm định giá.

Tám là,việc điều chỉnh trị số đàm phán mua bán (mức độ thương thảo mua bán từ giá rao bán đến mức giá có khả năng giao dịch thành công) thường do các thẩm định viên về giá ấn định giảm 5% hay 10% so với mức giá rao bán chứ không được thống kê thông tin thị trường để chứng minh số liệu này. Hiện nay cách tiếp cận từ thị trường chưa hướng dẫn rõ cách thức xác định trị số đàm phán mua bán nên một số thẩm định viên còn tùy tiện thực hiện theo ý chủ quan của mình.

Chín là,một số thẩm định viên còn lúng túng trong việc điều chỉnh mức giá chỉ dẫn về thời điểm giao dịch, điều kiện mua bán, điều kiện thanh toán, lợi ích thu được từ các bất động sản so sánh. Vì thế một số thông tin giá của bất động sản so sánh đã được đưa vào bảng so sánh không phù hợp. Phải chăng cần hướng dãn rõ hơn đối với các nội dung này để đảm bảo tính thống nhất và phù hợp cho các thẩm định viên về giá hành nghề.

Mười là, để xác định mức giá cuối cùng của tài sản thẩm định giá, phương pháp so sánh tại Tiêu chuẩn thẩm định giá số 08 yêu cầu thẩm định viên cần phân tích chất lượng thông tin của các tài sản so sánh sau đó kết hợp phân tích thêm những tiêu chí như tổng giá trị điều chỉnh gộp, tổng giá trị điều chỉnh thuần, tổng số lần điều chỉnh, biên độ điều chỉnh v.v… Tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể về phân tích chất lượng thông tin gồm những nội dung nào (như các tiêu chí đánh giá mức độ tin cậy của các thông tin, nguồn thông tin, thời điểm thu thập…). Đồng thời chưa có hướng dẫn thẩm định viên cần đánh giá động thái thị trường, xu hướng cung cầu thị trường bất động sản địa phương trong trường hợp có biến động hoặc chuẩn bị có biến động đáng kể về cung cầu hay các chính sách quản lý nhà nước về thuế, quy hoạch đô thị, quy hoạch giao thông…

Phương pháp so sánh là công cụ hữu hiệu nhất để thẩm định giá bất động sản, dễ sử dụng và ngày càng trở lên chính xác hơn khi có đủ lớn cơ sở dữ liệu thông tin giá thị trường. Để công cụ này ngày càng phát huy được hiệu quả trong thực tiễn cần nhanh chóng loại bỏ, hạn chế các khó khăn, tồn tại hiện nay; hướng tới việc sử dụng phương pháp so sánh là chủ đạo để thẩm định giá bất động sản một cách thống nhất, minh bạch và đáng tin cậy nhất.

Có bắt buộc phải thực hiện thẩm định giá khi đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế?

Cổng thông tin điện tử Chính phủ vừa có nội dung trả lời liên quan đến quy định về thẩm định giá trong đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập của địa phương.

Có bắt buộc phải thực hiện thẩm định giá khi đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế?
Bộ Tài chính vừa có văn bản trả lời về quy định liên quan đến thẩm định giá trong đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập của địa phương. Ảnh minh họa, nguồn – Int

Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ, vừa qua, công dân đã gửi đến Chính phủ câu hỏi liên quan đến việc áp dụng quy định về thẩm định giá trong hoạt động đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập của địa phương.

Cụ thể, theo bà Trần Hương Thu, hiệnĐiều 44 Luật Giá và Nghị định số 89/2013/NĐ-CPcủa Chính phủ quy định về phạm vi hoạt động thẩm định giá của Nhà nước như sau:

“Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trong các trường hợp sau:

1. Mua, bán, thanh lý, cho thuê tài sản nhà nước hoặc đi thuê tài sản phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;

2. Không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá;

3. Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước;

4. Mua, bán tài sản nhà nước có giá trị lớn mà sau khi đã thuê doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phê duyệt thấy cần thiết phải có ý kiến thẩm định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

TạiKhoản 7 Điều 1 Thông tư số 68/2022/TT-BTC ngày 11/11/2022sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 58/2016/TT-BTC(sửa đổi Khoản 2 Điều 11 Thông tư 58/2016/TT-BTC) về giá gói thầu quy định:

“Kết quả thẩm định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ phải thẩm định giá theo quy định của Luật giá”.

Hiện nay, các thông tư của Bộ Y tế về đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập (Thông tư số 15/2019/TT-BYT; Thông tư số 14/2020/TT-BYT; Thông tư 08/2023/TT-BYT bãi bỏ Thông tư số 14/2020/TT-BYT)đều không quy định về thẩm định giá nhà nước trong đấu thầu thuốc.

Do đó, bà Trần Hương Thu hỏi, đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập của địa phươngcó phải trường hợp bắt buộc phải có thẩm định giá của cơ quan nhà nước theo quy định của Luật Giá và Nghị định số 89/2013/NĐ-CP không?

Bên cạnh đó, việcđấu thầu thuốc, trang thiết bị y tếtại các cơ sở y tế công lập của địa phươngcó được áp dụng theo Khoản 4 Điều 44 Luật Giánêu trên hay không?Thẩm quyền quyết định thẩm định giá nhà nướctrong đấu thầu thuốc, trang thiết bị là UBND tỉnh hay Chủ tịch UBND tỉnh?

Với những thắc mắc nêu trên,Bộ Tài chínhtrả lời vấn đề này như sau:

Theo Điều 31 Luật Giá quy định về tài sản thẩm định giá như sau:

“Điều 31. Tài sản thẩm định giá

1. Tài sản của tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá.

2. Tài sản mà Nhà nước phải thẩm định giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Theo quy định trên thìLuật Giá không quy định cụ thể loại tài sản phải thẩm định giá. Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện trong trường hợp tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá hoặc trường hợp Nhà nước phải thẩm định giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Căn cứĐiều 44 Luật Giáquy định về phạm vi hoạt động thẩm định giá của Nhà nước như sau:

“Điều 44. Phạm vi hoạt động thẩm định giá của Nhà nước

Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trong các trường hợp sau:

1. Mua, bán, thanh lý, cho thuê tài sản nhà nước hoặc đi thuê tài sản phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;

2. Không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá;

3. Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước;

4. Mua, bán tài sản nhà nước có giá trị lớn mà sau khi đã thuê doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phê duyệt thấy cần thiết phải có ý kiến thẩm định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

TạiĐiều 23 Nghị định số 89/2013/NĐ-CPngày 6/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá quy định:

“Điều 23. Yêu cầu thẩm định giá tài sản

1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thẩm định giá tài sản theo yêu cầu hoặc đề nghị (sau đây gọi chung là yêu cầu) bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao mua, bán, thanh lý, cho thuê, đi thuê tài sản nhà nước trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 31 và Điều 44 của Luật Giá, cụ thể như sau:

a) Mua, bán, thanh lý, cho thuê tài sản nhà nước hoặc đi thuê tài sản phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nướctheo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;

b) Không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá đối với tài sản nhà nước trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao mua, bán, thanh lý, cho thuê, đi thuê tài sản nhà nước đã đăng công khai thông tin sau 15 (mười lăm) ngày mời cung cấp dịch vụ thẩm định giá nhưng không có doanh nghiệp thẩm định giá tham gia, trừ trường hợp đấu thầu thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu;

c) Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật về danh mục bí mật nhà nước;

d) Mua, bán tài sản nhà nước có giá trị lớn mà sau khi đã thuê doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phê duyệt thấy cần thiết phải có ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo phân cấp thẩm định giá tài sản nhà nước quy định tại điểm n khoản 2, điểm b khoản 3 và điểm b khoản 4 Điều 5 Nghị định này”.

Điểm b Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 89/2013/NĐ-CPquy định:

“4. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

… b) Phân công và tổ chức thực hiện thẩm định giá tài sản nhà nước quy định tại Khoản 2 Điều 31 và Điều 44 của Luật Giá thuộc địa phương quản lý theo quy định về phân cấp quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và quy định của pháp luật có liên quan;”.

Căn cứ vào các quy định trên, theo Bộ Tài chính, để trả lời câu hỏi bà Trần Hương Thu đặt ra thì trước hết cần xác định việc đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế công lập của địa phươngthuộc trường hợp tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá hay là thuộc trường hợp Nhà nước phải thẩm định giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Từ đó, căn cứ vào quy định tạiĐiều 44 của Luật Giá; Điều 23 của Nghị định số 89/2013/NĐ-CPvà quy định về phân công và tổ chức thực hiện thẩm định giá tài sản nhà nước của UBND cấp tỉnh theo quy định tại Điểm b Khoản 4 Điều 5 của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP để xác định cụ thể trường hợp áp dụng và thẩm quyền quyết định thẩm định giá của Nhà nước.

CẦN CÓ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT, ĐẢM BẢO CHẶT CHẼ TRONG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH GIÁ

Tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Giá (sửa đổi), nhiều ý kiến đại biểu cho rằng, giá là vấn đề phức tạp, dễ phát sinh tiêu cực, do vậy cần có cơ chế kiểm soát, đảm bảo chặt chẽ trong công tác thẩm định giá.

Các đại biểu tại Hội nghị

Dự thảo luật đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 với 115 lượt ý kiến của đại biểu Quốc hội phát biểu tại tổ và hội trường. Trên cơ sở đó, ban soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra đã phối hợp rà soát, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại Phiên họp thứ 21.

Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, cơ quan thẩm tra và cơ quan soạn thảo đã thống nhất bỏ 3 Điều; bổ sung 5 Điều; bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung 4 nội dung của các luật có liên quan; bổ sung thêm Phụ lục số 1 quy định Danh mục các hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá.

Giá là thành tố quan trọng, ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến từng người dân, doanh nghiệp

Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Thị Phú Hà nhấn mạnh, giá là vấn đề ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến từng người dân, doanh nghiệp, liên quan ổn định thị trường, do đó cần được quy định cụ thể trong luật nhằm tạo sự công khai, minh bạch. Đồng thời, việc quy định rõ danh mục các mặt hàng bình ổn giá trong luật cũng nhằm khắc phục tình trạng “luật khung, luật ống”.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí- Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cho rằng, trong dự thảo Luật này, những quy định về giá dịch vụ y tế rất mờ nhạt hoặc gần như không tìm thấy. Trong khi đó, vấn đề liên quan đến giá cực kỳ phức tạp, là thành tố quan trọng, dễ phát sinh tiêu cực.

Nhấn mạnh trong công tác đấu thầu, giá là đích đến của mọi cuộc thương thảo, giá cũng là vấn đề mà kẻ xấu hay lợi dụng tìm kẽ hở để trục lợi, bởi vậy đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí nêu rõ, giá dịch vụ y tế còn là vấn đề phức tạp hơn nhiều. Bởi nó có nhiều loại hình, hạng mục, chủng loại … như giá có tự chủ, giá không tự chủ, giá có xã hội hóa, giá không xã hội hóa. Ngoài ra, giá dịch vụ thầy thuốc là bác sỹ, tiến sỹ, phó giáo sư, giáo sư cũng khác nhau; giá dịch vụ thầy thuốc trong nước với nước ngoài cũng khác nhau. Không chỉ vậy, giá dịch vụ y tế trong khám bệnh, chữa bệnh từ xa cũng khác với khám, chữa bệnh trực tiếp…

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí- Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội

Theo đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí, Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) mà Quốc hội vừa thông qua là thành công rất lớn, đã tháo gỡ được nhiều vấn đề. Liên quan đến giá dịch vụ y tế, đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí nói thêm, rất nhiều lần trong quá trình soạn thảo bị “vướng”, khi cử tri hỏi thì chúng ta nói rằng vấn đề này sẽ được sửa đổi trong Luật Đấu thầu (sửa đổi) và Luật Giá (sửa đổi). Dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi) được đưa ra thảo luận tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ngày 5/4 đã có một số Điều từ 51 đến 54 đã khá tốt. Nếu sửa thêm một số điểm thì coi như ổn nhưng giá lại chưa được đề cập.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Anh Trí nhấn mạnh, giá là thành tố rất quan trọng để quyết định việc tự chủ bệnh viện công nhằm hạn chế việc tư nhân hóa bệnh viện công. Khi một bệnh viện tự chủ, đặc biệt là tự chủ toàn diện thì có 2 điều phải hết sức quan tâm đó là, giá giường phục vụ bệnh nhân được Bảo hiểm y tế chi trả khác với giá giường dịch vụ; có bao nhiêu giường được phép chuyển sang dịch vụ. Do vậy, đại biểu Nguyễn Anh Trí đề nghị trong dự thảo Luật Giá (sửa đổi) cần có quy định cụ thể về giá dịch vụ y tế để làm cơ sở xây dựng các thông tư về giá dịch vụ y tế, thuốc, vật tư y tế…

Cần có cơ chế kiểm soát, bảo đảm chặt chẽ trong công tác thẩm định giá

Nêu quan điểm tại hội nghị, đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Đức- Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh cho biết, qua nghiên cứu các vụ án vi phạm về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, một trong những vấn đề nổi lên là việc thẩm định giá, “thổi” giá cao, đặc biệt với thiết bị y tế. Đại biểu cho rằng, tình trạng trên xảy ra do có lỗ hổng trong quy định pháp luật ở Luật Giá hiện hành.

Mặc dù cơ quan soạn thảo đã sửa đổi các điều khoản này để khắc phục những bất cập hiện hành, cụ thể ở Điều 47, Điều 53 dự luật, đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Đức vẫn cho rằng, cần có quy định chặt chẽ hơn nữa về nghĩa vụ, trách nhiệm của thẩm định viên trong vấn đề thẩm định giá.

Hiện dự thảo Luật đang quy định thẩm định viên về giá có nghĩa vụ giải trình hoặc bảo vệ báo cáo kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba được sử dụng báo cáo kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá khi có yêu cầu; giải trình báo cáo kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Đức- Đoàn ĐBQH thành phố Hồ Chí Minh

Theo đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Đức, cần có cơ chế kiểm soát, bảo đảm chặt chẽ trong việc cung cấp thông tin giữa các bên liên quan trong vấn đề thẩm định giá. Bên cạnh đó, cần quy định thẩm định viên về giá có nghĩa vụ giải trình hoặc bảo vệ báo cáo kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba được sử dụng báo cáo kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá khi có yêu cầu. Đồng thời, giải trình báo cáo kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Đức cho rằng, để bảo vệ cán bộ, tránh trường hợp xảy ra các vụ việc vi phạm, cần quy định bắt buộc phải báo cáo kết quả thẩm định giá, chứ không phải chỉ báo cáo khi yêu cầu. Điều này nhằm bảo đảm hậu kiểm đầy đủ chặt chẽ trong thẩm định giá, phòng ngừa trường hợp thông đồng thao túng giá gây hậu quả nghiêm trọng.

Đại biểu Quốc hội Tạ Văn Hạ – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam

Đại biểu Quốc hội Tạ Văn Hạ – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam cũng đề nghị dự thảo Luật phải quy định thật rõ về nội dung liên quan đến Hội đồng thẩm định giá để có thể an tâm về chất lượng của Hội đồng.

Nêu ý kiến về vấn đề này, đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Thịnh- Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cho biết, về hoạt động thẩm định giá của nhà nước, dự thảo luật quy định chưa chặt chẽ về trách nhiệm, năng lực chuyên môn của thành viên Hội đồng thẩm định giá.

Cụ thể, điều 59 của dự thảo Luật quy định: Thẩm định giá của Nhà nước được thực hiện trong trường hợp pháp luật quy định sử dụng phương thức thẩm định giá của Nhà nước là một trong các cơ sở để người có thẩm quyền xem xét quyết định hoặc phê duyệt giá.

Bên cạnh đó, điều 60 của dự thảo Luật quy định, Hội đồng thẩm định giá phải có tối thiểu 3 thành viên là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng của người thành lập Hội đồng. Hội đồng phải có ít nhất 50% thành viên bao gồm Chủ tịch Hội đồng có một trong các chứng nhận chuyên môn.

Do vậy, đại biểu đề xuất quy định tất cả các thành viên Hội đồng thẩm định giá đều cần có các chứng nhận chuyên môn đầy đủ, để bảo đảm tất cả đều có đủ năng lực chuyên môn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về các ý kiến, nhận định, đánh giá chuyên môn của mình; đồng thời cũng cần liên tục cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn để bảo đảm việc thẩm định giá được thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật./.

Thu Phương

Thẩm định giá máy móc thiết bị

Tại Việt Nam, máy móc thiết bị, hàng hóa dịch vụ là đối tượng tài sản phổ biến trong định giá. Nhu cầu thẩm định giá máy móc thiết bị và hàng hóa dịch vụ đến từ các mục đích khác nhau như đấu thầu mua sắm của cơ quan nha nước, xác định tài sản đảm bảo của ngân hàng, xác định giá trị tài sản thanh lý,… Danh mục chủng loại máy móc thiết bị cũng rất đa dạng, từ máy móc thiết bị được lắp đặt trong các dây chuyền sản xuất, nhà máy lớn; đến các trang thiết bị thí nghiệm, các máy móc chuyên dụng trong ngành Y; các thiết bị tin học, phần mềm công nghệ,… đến các hàng hóa dịch vụ máy móc thông thường trong đời sống dân dụng.

Thẩm định giá máy móc thiết bị

 

Tại Việt Nam, máy móc thiết bị, hàng hóa dịch vụ là đối tượng tài sản phổ biến trong định giá. Nhu cầuthẩm định giámáy móc thiết bị và hàng hóa dịch vụ đến từ các mục đích khác nhau như đấu thầu mua sắm của cơ quan nha nước, xác định tài sản đảm bảo của ngân hàng, xác định giá trị tài sản thanh lý… Danh mục chủng loại máy móc thiết bị cũng rất đa dạng, từ máy móc thiết bị được lắp đặt trong các dây chuyền sản xuất, nhà máy lớn; đến các trang thiết bị thí nghiệm, các máy móc chuyên dụng trong ngành Y; các thiết bị tin học, phần mềm công nghệ… đến các hàng hóa dịch vụ máy móc thông thường trong đời sống dân dụng.

Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, máy móc thiết bị cũng thay đổi nhanh chóng về kiểu mẫu, hình dáng, tiêu chuẩn kỹ thật, chất liệu, chức năng… Không chỉ vậy, bản thân máy móc còn có sự đa dạng nguồn gốc xuất sứ của sản phẩm, phân khúc giá của từng chủng loại sản phẩm. Bởi vậy, để thực hiện thẩm định giá chính xác, người thẩm định viên đòi hỏi có kiến thức, am hiểu về thị trường, nhanh nhạy nắm bắt những biến động của thị trường máy móc thiết bị trong bối cảnh công nghệ đang có những bước phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Đó là những nền tảng cơ bản giúp một thẩm định viên bước đầu thẩm định đúng giá trị của tài sản.

Phương pháp thẩm định giá máy móc thiết bị

Phụ thuộc vào tính chất của máy móc thiết bị là tài sản mới hay tài sản đã qua sử dụng chúng tôi áp dụng các phương pháp thẩm định khác nhau. Tuy nhiên, đối với tài sản máy móc thiết bị hiện nay, chúng ta thường dùng 2 phương pháp thẩm định giá chính: phương pháp so sánh và phương pháp chi phí. Đối với phương pháp so sánh, chúng ta xác định giá trị của tài sản dựa trên cơ sở phân tích mức giá của các tài sản so sánh để ước tính. Phương pháp này thuộc cách tiếp cận từ thị trường. Về phương pháp chi phí, đây là phương pháp lấy cơ sở dựa trên chi phí tái tạo lại hoặc chi phí thay thế tài sản tương tự với tài sản thẩm định giá, từ đó xác định giá trị của tài sản cần thẩm định.

Vì sao chọn Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nội để thẩm định giá máy móc thiết bị?

Trong 6 năm hành nghề, Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nội đã thực hiên thẩm định cho hơn trăm nghìn hồ sơ về thẩm định giá máy móc thiết bị với các loại máy móc thiết bị khác nhau, từ đặc thù đến dân dụng. Chúng tôi là tổ chức định giá được lựa chọn của các cơ quan nhà nước tại 63 tỉnh thành trong khắp cả nước như Sở Tài chính, Sở Y tế, Sở Giáo dục, các Ban quản lý dự án, Bệnh viện, Trường học…

Với việc thưc hiện đa dạng các hồ sơ liên quan đến định giá máy móc thiết bị đã giúp cho các chuyên viên thẩm định giá của vvi có được những kinh nghiệm thực tế chuyên sâu về máy móc thiết bị; những hiểu biết, kiến thức về công nghệ máy móc liên tục được cập nhật, bắt kịp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật tiên tiến. Bên cạnh đó, chúng tôi có sự cộng tác của các chuyên gia từng có nhiều năm kinh nghiệm mua sắm, quản lý các chủng loại thiết bị khác nhau. Những kinh nghiệm chuyên sâu này giúp cho việc xác định chính xác và nhanh nhất giá của thiết bị hàng hóa tại thời điểm định giá.

Dịch vụ Thẩm định giá Thiết bị y tế

Với 20 năm kinh nghiệm và nhiều Thẩm định viên có kinh nghiệm trong công tác thẩm định giá, Chúng tôi đang là đối tác tin cậy cung cấpDịch vụ Thẩm định giá Vật tư, Thiết bị y tế của rất nhiều Bệnh viện, Trung tâm y tế. Với mong muốn hướng tới Dịch vụ Thẩm định giá Thiết bị y tế với Chất lượng Hoàn hảo, Chúng tôi không ngừng đào tạo và phát triển đội ngũ nhân viên để làm hài lòng tất cả các Quý khách hàng.

Dịch vụ Thẩm định giá Thiết bị y tế

DỊCH VỤ THẨM ĐỊNH GIÁ THIẾT BỊ Y TẾ

1. Quy định về Thẩm định giá Thiết bị y tế

Trang thiết bị y tếđược định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Nghị định 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế như sau:

Trang thiết bị y tế làcác loại thiết bị, dụng cụ, vật liệu, vật tư cấy ghép, thuốc thử và chất hiệu chuẩn in vitro, phần mềm (software) được sử dụng riêng lẻ hay phối hợp với nhau theo chỉ định của chủ sở hữu trang thiết bị y tế để phục vụ cho con người

Ngày 29/3/2016, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 58/2016/TT-BTC quy định chi tiết việc sử dụng vốn nhà nước để mua sắm nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; trong đó, điểm d khoản 1 Điều 2 Thông tư số 58/2016/TT-BTC quy định nội dung mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư bao gồm hóa chất, vật tư bảo đảm hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị. Theo quy định này, hóa chất (không phải là thuốc), vật tư y tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 58/2016/TT-BTC.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 104 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu quy định: “Sở Y tế chịu trách nhiệm tổ chức thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu mua thuốc, vật tư y tế”.

Do vậy, đối với gói thầu vật tư y tế thì Sở Y tế chịu trách nhiệm tổ chức thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà thầu; các nội dung khác thực hiện theo quy định tại Thông tư số 58/2016/TT-BTC.

2. Quy trình Thẩm định giá Thiết bị y tế

⭐ Xác định tổng quát về tài sản cần thẩm định giá và xác định giá trị thị trường hoặc phi thị trường làm cơ sở thẩm định giá.

⭐ Lập kế hoạch thẩm định giá.

⭐ Khảo sát thực tế, thu thập thông tin.

⭐ Phân tích thông tin.

⭐ Xác định giá trị tài sản cần thẩm định giá.

⭐ Lập báo cáo kết quả thẩm định giá, chứng thư thẩm định giá và gửi cho khách hàng, các bên liên quan.

3. Đối tượng sử dụng Dịch vụ Thẩm định giá Thiết bị y tế:

icon cam ket Các bệnh viện, Phòng khám, …

icon cam ket Nhà cung cấp thiết bị y tế.

Khoảng hở chất lượng thẩm định giá

– Chứng thư thẩm định giá – tài liệu quan trọng để lập dự toán gói thầu – cần được xây dựng bởi đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp, liêm chính. Coi nhẹ khâu thẩm định giá là nguy cơ làm giảm hiệu quả đầu tư, đẩy những người tham gia hoạt động mua sắm vào rủi ro pháp lý.
Sự yếu kém về chất lượng của các chứng thư thẩm định giá lĩnh vực thiết bị y tế khiến việc xây dựng dự toán gói thầu gặp rất nhiều khó khăn. Ảnh: Song Lê
Sự yếu kém về chất lượng của các chứng thư thẩm định giá lĩnh vực thiết bị y tế khiến việc xây dựng dự toán gói thầu gặp rất nhiều khó khăn. Ảnh: Song Lê

Theo tìm hiểu của phóng viên, giai đoạn trước 2021, tình trạng thẩm định giá hình thức, không khách quan, không đủ độ tin cậy và không bám sát diễn biến thị trường, thậm chí có động cơ vụ lợi rất phổ biến trong hoạt động đấu thầu. Một số đơn vị tư vấn đấu thầu mua sắm thiết bị y tế cho biết, các chủ đầu tư phó thác hoàn toàn cho đơn vị tư vấn thẩm định giá mà không thực hiện các bước hậu kiểm, đối chiếu. Thậm chí, một số chủ đầu tư còn chỉ định đơn vị thẩm định giá nên tham khảo giá thiết bị từ các nhà thầu cung cấp.

Một giám đốc bệnh viện tại TP.HCM lý giải về giá thiết bị chụp MRI như sau: “Đây là thiết bị mới hoàn toàn tại Việt Nam. Do đó, đơn vị thẩm định giá không có nhiều kênh tham khảo. Bệnh viện chỉ có duy nhất một báo giá để đối chiếu, làm cơ sở xây dựng giá gói thầu của thiết bị”. Còn theo đơn vị tư vấn thẩm định giá, họ “không biết tham khảo giá từ nguồn nào cho khách quan ngoài chính các nhà thầu từng cung ứng cho bệnh viện này”.

Thực trạng yếu kém về chất lượng của các chứng thư thẩm định giá lĩnh vực thiết bị y tế bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Nghị định số 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế quy định phải thực hiện kê khai giá. Tại Điều 44 quy định: “Không được mua bán trang thiết bị y tế khi chưa có giá kê khai và không được mua bán cao hơn giá kê khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế tại thời điểm mua bán”. Tuy nhiên, hiện nay nhiều mặt hàng chưa được các đơn vị cung cấp thực hiện kê khai giá trên Cổng thông tin của Bộ Y tế. Chưa có quy định, hướng dẫn rõ ràng về: xây dựng danh mục, lập thông số kỹ thuật, cấu hình, quy trình mua sắm… đối với các mặt hàng tiêu hao như: vật tư y tế, hóa chất, sinh phẩm. Do đó, việc xác định giá rất khó khăn.

Tại Bắc Ninh, việc mua sắm một số trang thiết bị y tế, vật tư, hóa chất, sinh phẩm cũng gặp khó khăn do không xây dựng được giá gói thầu. Đồng thời, thông tin tham khảo giá trúng thầu của nhiều mặt hàng về đặc tính, thông số kỹ thuật chưa đầy đủ hoặc không rõ ràng, dẫn tới công tác thẩm định giá chưa hiệu quả.

TP. Đà Nẵng cho biết, việc nhiều doanh nghiệp chưa hiện kê khai giá đầy đủ các trang thiết bị, vật tư, hóa chất lưu hành, gây khó khăn cho công tác thẩm định giá, khó xác định được giá khi xây dựng dự toán gói thầu.

Theo các chuyên gia đấu thầu, công tác thẩm định giá thiết bị đang bị lỏng lẻo từ nhiều phía, đặc biệt là các chủ thể trực tiếp tham gia hoạt động thẩm định giá. Kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra hàng loạt dự án vi phạm quy định về đấu thầu đều nhấn mạnh sự yếu kém, không đủ tin cậy của các chứng thư thẩm định giá. Tình trạng thổi giá thiết bị đều bắt nguồn từ những chứng thư thẩm định giá được thẩm định, ban hành thiếu chính xác, khách quan, minh bạch.

Liên quan đến trách nhiệm giám sát hoạt động thẩm định giá, Bộ Tài chính vừa thông tin, sau khi tiến hành kiểm tra, đã phát hiện hàng loạt tồn tại của hoạt động này. Trong đó có việc không thực hiện đúng quy trình thẩm định giá, phát hành chứng thư thẩm định giá hoặc báo cáo thẩm định giá không đủ thông tin cơ bản theo hướng dẫn tại Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.

Bên cạnh đó, một số thẩm định viên còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết chưa sâu về tài sản thẩm định giá và thị trường của tài sản thẩm định giá, nên chưa có những đánh giá, biện luận cần thiết để có kết luận phù hợp về giá trị của tài sản.

Bộ Tài chính yêu cầu các bên tuân thủ đúng các quy định, trước hết là Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Trong đó, thực hiện nghiêm túc quy trình khảo sát, thu thập và phân tích thông tin. Các thông tin thu thập phải ghi rõ nguồn, bảo đảm tính khách quan, trung thực và được kiểm chứng, xác minh nhằm bảo đảm độ tin cậy, chất lượng thông tin trước khi áp dụng các phương pháp thẩm định giá để ước tính giá trị tài sản.