Bài viết dưới đây sẽ giải thích chi tiết về hoạt động thẩm định giá cũng như điều kiện và thực trạng hiện này của ngành, nghề này trong nền kinh tế thị trường.
Thẩm định giá là gì? Có vai trò thế nào?
Khoản 15 Điều 4 Luật Giá năm 2012 định nghĩa thẩm định giá như sau:
15. Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.
Theo đó, thẩm định giá hiện là một dịch vụ tư vấn tài chính không thể thiếu về việc xác định giá trị tài sản trong nên kinh tế thị trường. Đây cũng là yếu tố góp phần làm minh bạch, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả của thị trường. Đồng thời, khi thẩm định giá đúng thì sẽ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của công dân.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, Bộ Tài chính đã đình chỉ hàng loạt doanh nghiệp thẩm định giá và thu hồi hàng chục giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định 89/2013/NĐ-CP như:
– Không đảm bảo một trong các điều kiện tương ứng loại hình doanh nghiệp trong 03 tháng liên tiếp.
– Có sai phạm nghiêm trọng về chuyên môn hoặc tiêu chuẩn thẩm định giá: Không tuân thủ Tiêu chuẩn thẩm định Việt Nam, tiết lộ thông tin về hồ sơ, khách hàng, tài sản; thông đồng với chủ tài sản, khách hàng làm sai lệch kết quả thẩm định giá…
Về đánh giá vai trò của thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Trưởng phòng tranh tụng, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội) nêu rõ:
Thẩm định giá là một dịch vụ tư vấn tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, xuất phát từ nhu cầu khách quan về việc xác định giá trị tài sản; trên cơ sở các bên tham gia giao dịch có thể thoả thuận với nhau về tài sản, giúp các giao dịch về tài sản thành công, đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên. Thẩm định giá góp phần làm minh bạch thị trường, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả của thị trường. Thẩm định giá viên về giá có vai trò xác định giá trị tài sản của nhiều đối tượng chính xác, độc lập, khách quan, và có đạo đức nghề nghiệp phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Việc thẩm định giá đúng giá trị tài sản giúp cho các hoạt động kinh tế trở nên hiệu quả và mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu, thẩm định giá là một loại dịch vụ mà trong đó thẩm định giá viên thực hiện việc thẩm định giá trị của các loại tài sản bằng tiền so với giá trị thị trường.
Điều kiện để được hoạt động thẩm định giá
Theo Điều 38 Luật Giá năm 2012, điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá gồm:
– Được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
– Hoạt động khi được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
Trong đó,điều kiện để doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhậnnêu tại Điều 39 Luật Giá như sau:
STT
Loại hình công ty
Điều kiện
1
Công ty trách nhiệm hữu hạn 01 thành viên
– Có giấy đăng ký kinh doanh/doanh nghiệp hoặc chứng nhận đầu tư;
– Có ít nhất 03 thẩm định viên đăng ký hành nghề, trong đó phải có thành viên là chủ sở hữu;
– Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
2
Công ty trách nhiệm hữu hạn 02 thành viên trở lên
– Có giấy đăng ký kinh doanh/doanh nghiệp hoặc chứng nhận đầu tư;
– Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề trong đó tối thiểu có 02 thành viên góp vốn;
– Người đại diện hoặc giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là thẩm định viên về giá.
– Người góp vốn là tổ chức thì phần vốn góp của thành viên không vượt quá mức vốn góp quy định và người đại diện của tổ chức này phải là thẩm định viên về giá
3
Công ty hợp danh
– Có giấy đăng ký kinh doanh/doanh nghiệp hoặc chứng nhận đầu tư;
– Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề trong đó tối thiểu có 02 thành viên hợp danh;
– Người đại diện hoặc giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là thẩm định viên về giá.
4
Doanh nghiệp tư nhân
– Có giấy đăng ký kinh doanh/doanh nghiệp hoặc chứng nhận đầu tư;
– Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề trong đó chủ doanh nghiệp là thẩm định viên đã đăng ký hành nghề.
5
Công ty cổ phần
– Có giấy đăng ký kinh doanh/doanh nghiệp hoặc chứng nhận đầu tư;
– Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề trong đó có tối thiểu 02 cổ đông sáng lập.
– Nười đại diện hoặc giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là thẩm định viên về giá.
– Người góp vốn là tổ chức thì phần vốn góp của thành viên không vượt quá mức vốn góp quy định và người đại diện của tổ chức này phải là thẩm định viên về giá.
Như vậy, pháp luật có quy định cụ thể và rõ ràng về điều kiện để thành lập doanh nghiệp hành nghề thẩm định giá trong đó có quy định về điều kiện về số lượng thẩm định viên. Theo đó, các loại hình doanh nghiệp thường phải có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đã đăng ký hành nghề.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động thẩm định giá, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Trưởng phòng tranh tụng, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội) đề xuất:
– Cần phải hoàn thiện thêm các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo hướng chuyên môn hoá theo lĩnh vực;
– Xử lý chồng chéo, vương mắc đồng thời phân ngành theo chuyên môn, nghiệp vụ để hướng đến tính chuyên nghiệp, phù hợp thông lệ quốc tế.
– Rà soát lại hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá để hoàn thiện hơn đảm bảo phù hợp với tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế và khu vực.
Ở Việt Nam, dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng quyền sử dụng đất vẫn là một quyền tài sản quan trọng ngay cả khi chưa đạt tới mức tuyệt đối như quyền sở hữu. Thông qua cơ chế giá, Nhà nước quyết định phân bổ quyền sử dụng đất đến các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Mặc dù giá chưa phải cơ chế hoàn hảo, nhưng nếu năng lực khai thác và hiệu quả sử dụng tài nguyên sẽ được phản ánh qua việc sẵn lòng chi trả thì cơ chế giá là cơ chế hiệu quả quyết định quyền sử dụng đất sẽ được trao cho ai…
Chính phủ yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi) trước 1/4/2023.
Vì vậy, giá đất, giá trị quyền sử dụng đất và định giá đất là nội dung trọng yếu, thu hút sự quan tâm của dư luận trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)…
Về hoạt động định giá đất, một lập luận phổ biến thường được nhắc đến là: việc xác định giá đất chưa sát với giá thị trường gây thất thu ngân sách nhà nước, tạo kẽ hở cho tiêu cực, tham nhũng.
Như vậy, để biết có thất thoát ngân sách nhà nước hay không, người ta sẽ sử dụng kết quả định giá đất để so sánh với một “giá thị trường” nào đó được giả định là chuẩn hơn, chính xác hơn. Tuy nhiên, hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể, rõ ràng về “giá thị trường” và cách xác định “giá thị trường” của quyền sử dụng đất, dẫn đến có sự nhầm lẫn phổ biến giữa khái niệm “giá trị” và “giá cả”.
CẦN MINH ĐỊNH GIÁ CẢ THỊ TRƯỜNG VỚI GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG
Theo Khoản 19 Điều 3 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): “Giá đất là giá trị của quyền sử dụng đất tính bằng tiền trên một đơn vị diện tích đất”, Khoản 20 Điều 3 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): “Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất, loại đất với thời hạn sử dụng đã được xác định”.
Như vậy, kết quả của việc định giá đất ở đây là giá trị (value) chứ không phải là giá cả (price). Để việc định giá đất phù hợp với thị trường thì cơ sở định giá phải là cơ sở giá trị thị trường và các dữ liệu định giá là dữ liệu thị trường; kết quả định giá được kỳ vọng sẽ cho giá trị thị trường (market value). Vậy, giá trị thị trường khác gì với giá cả thị trường (market price)? “Giá thị trường” thường được sử dụng làm thước đo chuẩn để so sánh với kết quả định giá của tổ chức tư vấn là “giá trị thị trường” hay “giá cả thị trường”?
Quy luật giá trị hoạt động thể hiện ở sự vận động của giá cả xoay xung quanh trục giá trị… Thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa trên thị trường mới thấy được sự vận động của quy luật giá trị.
Giá cả là biểu hiệu bằng tiền của giá trị; giá trị là nội dung, cơ sở của giá cả; do đó, giá cả phụ thuộc vào giá trị. Tuy nhiên, trên thị trường, giá cả còn chịu ảnh hưởng của quy luật cung – cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ. Sự tác động của các yếu tố đó làm cho giá trị và giá cả không đồng nhất với nhau mà tách rời nhau. Sự vận động của giá cả của các hàng hóa trên thị trường sẽ lên, xuống xoay quanh giá trị. Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị và giá trị như cái trục của giá cả.
Nếu đồng ý rằng giá đất được sử dụng trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) là “giá trị”, thì việc so sánh với một “giá cả thị trường”, là mức giá đã giao dịch thành công cụ thể nào đó sẽ không có ý nghĩa.
Trên thực tế, chúng ta chỉ quan sát được giá cả mà không quan sát được giá trị. Giá trị thường ngầm ẩn giấu dưới vô vàn giá cả được giao dịch trên thị trường, dù có thể thống kê nhưng vẫn bị hạn chế bởi các giả định của cơ sở giá trị thị trường. Vì không biết và không quan sát được giá trị nên các kết quả định giá của các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác nhau đều là “sự ước tính giá trị thị trường”.
Nếu đồng ý rằng giá đất được sử dụng trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) là “giá trị”, thì việc so sánh với một “giá cả thị trường”, là mức giá đã giao dịch thành công cụ thể nào đó sẽ không có ý nghĩa. Vì ngay cả khi giá trị được xác định hoàn toàn chính xác trong điều kiện lý tưởng, vẫn sẽ có chênh lệch giữa giá cả và giá trị, khoảng chênh lệch này lớn hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện thị trường cụ thể.
Theo IVS 104 (Tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế) có hiệu lực từ ngày 31/1/2022: “Giá trị thị trường là số tiền ước tính mà một tài sản hoặc khoản nợ phải trả có thể được giao dịch vào ngày thẩm định giá giữa người mua sẵn sàng mua và người bán sẵn sàng bán trong một giao dịch khách quan độc lập, sau khi marketing thích hợp và khi các bên đã hành động một cách có hiểu biết, thận trọng và không bị ép buộc… Giá trị thị trường là mức giá dễ xảy ra nhất (khả năng cao nhất, hay hiểu nôm na là phổ biến nhất) có thể đạt được một cách hợp lý trên thị trường vào ngày thẩm định giá phù hợp với định nghĩa giá trị thị trường. Đó là mức giá tốt nhất mà người bán có thể đạt được và mức giá có lợi nhất mà người mua có thể đạt được một cách hợp lý. Ước tính này đặc biệt loại trừ ước tính giá cả bị thổi phồng hoặc hạ thấp quá mức bởi các điều kiện hoặc trường hợp đặc biệt như một khoản tài trợ điển hình, thỏa thuận bán và cho thuê lại, các cân nhắc hoặc nhượng bộ đặc biệt được đưa ra bởi bất kỳ ai liên quan đến việc mua bán hoặc bất kỳ yếu tố giá trị nào chỉ dành cho chủ sở hữu hoặc người mua cụ thể”.
Điều đó có nghĩa, việc xác định giá đất theo cơ sở giá trị thị trường phải dựa vào kỹ thuật thống kê để tìm ra mức giá phổ biến nhất, mức giá tốt nhất cho người bán và có lợi nhất cho người mua.
Tuy nhiên, theo Điều 153 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi): “Giá đất phổ biến trên thị trường trong điều kiện bình thường được xác định bằng bình quân của các mức giá giao dịch thực tế của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng trên thị trường xuất hiện với tần suất nhiều nhất thông qua thống kê tại một khu vực và trong một khoảng thời gian nhất định, không chịu tác động của các yếu tố gây tăng hoặc giảm giá đột biến, giao dịch có quan hệ huyết thống hoặc có những ưu đãi khác”.
Việc xác định này dựa trên quan điểm cho rằng về cơ bản, giá cả giao dịch cụ thể vẫn phải xoay quanh giá trị trung bình của chúng (trong xác suất thống kê, giá trị trung bình còn gọi là giá trị kỳ vọng). Vì đồng thời giá cả thị trường cũng xoay quanh trục giá trị thị trường, nên người ta đang giả định rằng giá trị thị trường chính bằng giá trị trung bình của giá cả thị trường.
Do đó, việc so sánh kết quả định giá (là sự ước tính giá trị thị trường) với “giá cả thị trường” là vô nghĩa, vì giá trị trung bình (được sử dụng để ước tính giá trị thị trường) hiếm khi trùng với giá cả thị trường cụ thể. Vì vậy, thuật ngữ “giá thị trường” phải hàm ý “giá trị thị trường” thì mới có thể đánh giá kết quả định giá có sát hay không. Để làm được điều này đòi hỏi phải có một bộ dữ liệu tương đối đầy đủ về “các mức giá giao dịch thực tế của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng trên thị trường”.
TÍNH KHẢ THI CỦA QUY ĐỊNH VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ ĐẤT?
Nếu như cả đơn vị tư vấn và cơ quan nhà nước đều sử dụng cùng một bộ dữ liệu và phương pháp như nhau, giá trị trung bình được xác định sẽ phải như nhau.
Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn, quy định tại Điều 153 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có thể tạo ra khó khăn trong quá trình thực thi, thể hiện ở những điểm sau…
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 13-2023 phát hành ngày 27-03-2023.Kính mời Quý độc giả tìm đọc tạiđây:
Hội Thẩm định giá Việt Nam vừa góp ý Dự thảo Thông tư ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá về thu thập và phân tích thông tin tài sản thẩm định giá do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo.
Ảnh minh hoạ.
Theo đó, Hội Thẩm định giá Việt Nam đề nghị bổ sung nhiều nội dung liên quan đến yêu cầu thu thập thông tin, quy trình thu thập thông tin, tính pháp lý của thông tin, các phương pháp phân tích thông tin, trách nhiệm của người thu thập và phân tích thông tin về tài sản thẩm định giá.
Về yêu cầu thu thập thông tin, Hội Thẩm định giá Việt Nam đề xuất thêm một số nội dung: Thông tin thu thập phải phù hợp với yêu cầu thẩm định giá tài sản, có tính hợp pháp, có giá trị sử dụng; thông tin phải chính xác; thông tin phải khách quan, đúng thực tế; thông tin phải có tính hệ thống và tổng hợp; thông tin phải thống nhất, hài hòa, bổ sung cho nhau.
Hội này cũng đề nghị: bỏ cụm từ “đầy đủ” trong Dự thảo vì không có tiêu chí đầy đủ về thông tin để so sánh. Đồng thời, bổ sung thời điểm thu thập thông tin trong quá khứ không quá 2 năm tính đến thời điểm thẩm định giá…
Về quy trình chung của việc thu thập và phân tích thông tin, Hội Thẩm định giá Việt Nam đề xuất 6 bước.
Cụ thể: (1) Xác định mục tiêu thu thập, phân tích thông tin; (2) xây dựng phương pháp thu thập và phân tích thông tin phù hợp với mục tiêu thẩm định giá; (3) tiến hành thu thập thông tin, dữ liệu; (4) kiểm tra chất lượng thông tin, dữ liệu; (5) xử lý, phân tích, làm sạch thông tin, dữ liệu; (6) tổng hợp, đánh giá, lựa chọn thông tin, dữ liệu đưa vào xác định giá trị tài sản.
Theo Hội Thẩm định giá, Dự thảo đã nêu được việc thu thập thông tin được tiến hành từ các thông tin thứ cấp và sơ cấp, nhưng việc sắp xếp còn chưa đúng trình tự của từng nguồn thông tin (kênh thông tin) và cũng còn thiếu một số nguồn cần được xem xét bổ sung.
Trên cơ sở đó, đề xuất sắp xếp như sau đối với thông tin thứ cấp: Là thông tin do khách hàng thẩm định giá cung cấp bằng văn bản; thông tin từ các hồ sơ, tài liệu, văn bản của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương; thông tin từ các cơ sở dữ liệu về thị trường giá cả của các tổ chức có chức năng thiết lập và trên các sàn giao dịch tài sản; thông tin từ sách, báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, cổng thông tin điện tử và trên mạng Internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác.
Thông tin sơ cấp gồm: Thông tin từ kết quả điều tra, khảo sát thực tế hiện trạng tài sản và thị trường của tài sản; thông tin từ kết quả phỏng vấn trực tiếp chủ sở hữu (hoặc chủ sử dụng tài sản), các chủ thể tham gia thị trường liên quan đến tài sản thẩm định giá; người môi giới, cán bộ địa chính, phường, xã.
Hội Thẩm định giá Việt Nam đề xuất Dự thảo cần: Quy định và giải thích rõ về tính pháp lý của thông tin thu thập là thế nào, quy định trách nhiệm, quyền hạn của người thu thập thông tin đến đâu?
Đồng thời, cơ quan soạn thảo nên cân nhắc về việc đòi hỏi có chữ ký của người cung cấp thông tin vì khó khả thi.
Các phương pháp xử lý thông tin được khuyến nghị áp dụng là định tính và định lượng.
Trong đó, phương pháp phân tích, xử lý thông tin định tính: “Là phương pháp tiếp cận tài sản và xác định giá trị tài sản bằng cách thức mô tả, diễn giải, phân tích, lập luận từ các dữ liệu thị trường đã thu thập được nhằm tìm ra được bản chất giá trị của tài sản cần xử lý”.
Phương pháp phân tích, xử lý thông tin định lượng: “Là phương pháp tiếp cận tài sản và xác định giá trị tài sản bằng các phương pháp thích hợp từ những số liệu đã thu thập được từ thị trường”. Cụ thể bao gồm: Phương pháp thống kê (thống kê mô tả, thống kê suy luận); phương pháp phân tích mối quan hệ hồi quy và tương quan; phương pháp phân tích sự khác biệt.
Thực tế hiện nay, phương pháp thặng dư (residual method) thường được sử dụng để định giá lô đất trống hay các bất động sản có tiềm năng phát triển…
Xác định giá trị đất đai là hoạt động phổ biến và quan trọng chiếm tỷ lệ lớn nhất, là tài sản thường xuyên nhất trong các hoạt động định giá.
Những trục trặc trong việc áp dụng phương pháp thặng dư ở Việt Nam có thể đến từ 3 khâu chính.
Một là trục trặc trong khâu xây dựng quy định hướng dẫn.
Hai là trục trặc trong khâu xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu giá
Ba là trục trặc ở khâu thực thi.
Trong đó, những trục trặc trong khâu xây dựng văn bản pháp lý hướng dẫn phương pháp thặng dư cần rất thận trọng, vì có thể dẫn tới những hậu quả khó lường cho nền kinh tế.
HIỂU NHƯ THẾ NÀO VỀ PHƯƠNG PHÁP THẶNG DƯ?
Tại Việt Nam, trong suốt thời gian qua và trong những năm gần đây, việc xác định giá trị đất đai là hoạt động phổ biến và quan trọng chiếm tỷ lệ lớn nhất, là tài sản thường xuyên nhất trong các hoạt động định giá.
Thông qua hoạt động định giá đất (mà chính xác hơn là giá trị quyền sử dụng đất), nguồn lực đất đai được phân bổ hiệu quả hơn thông qua cơ chế giá.
Những bất cập tiềm ẩn trong phương pháp định giá trên cơ sở giá trị thị trường sẽ dẫn tới những bất cập hiện hữu trong việc phân bổ nguồn tài nguyên này. Thực tế hiện nay, phương pháp thặng dư (residual method) thường được sử dụng để định giá lô đất trống hay các bất động sản có tiềm năng phát triển.
Những tranh luận trong thời gian gần đây về phương pháp định giá đất, trong đó nổi bật là đề xuất bỏ phương pháp thặng dư trong định giá đất và những thay đổi trong dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (sau đây gọi tắt là Thông tư 36) vừa qua cho thấy rất nhiều vấn đề bất cập liên quan đến việc ban hành quy định về phương pháp thặng dư cần phải thảo luận kỹ.
Trong số các phương pháp định giá đất hiện nay ở Việt Nam, phương pháp thặng dư là phương pháp được sử dụng rất phổ biến nhưng cũng là phương pháp gây ra nhiều hiểu lầm nhất.
Được “nhập khẩu” vào Việt Nam, phương pháp thặng dư là cách dịch từ nguyên gốc “residual method” (đôi khi là residual valuation method).
Cách dùng từ “thặng dư” khiến rất nhiều người hành nghề và cả những nhà nghiên cứu hiểu theo nghĩa khác mang hơi hướng kinh tế chính trị Marx-Lenin trong khi ý nghĩa nguyên gốc không phải như vậy.
Có thể thấy, nhiều ý kiến cho rằng kết quả của phương pháp thặng dư là địa tô chênh lệch, trong khi địa tô (rent rate) chênh lệch trong học thuyết của Karl Marx gần như không có liên hệ gì với kết quả của phương pháp thặng dư.
Thuật ngữ “giá trị thặng dư” (surplus value) trong học thuyết của Karl Marx khác với “giá trị thặng dư” (residual value) – giá trị đất trong phương pháp thặng dư mà bài viết chỉ ra dưới đây.
Ở một số kênh thông tin thu thập được cho thấy, nhiều quan điểm nhầm lẫn phương pháp thặng dư với việc tính NPV (giá trị hiện tại ròng) của dự án để ra quyết định đầu tư, thể hiện qua đề xuất bỏ phương pháp thặng dư vì cho rằng đây là phương pháp phục vụ ra quyết định đầu tư.
Bên cạnh đó, còn một quan điểm nữa thường gặp, kể cả với nhà làm luật, người làm công tác định giá (gồm thẩm định viên và những người có chứng chỉ định giá đất, tạm gọi là định giá viên) và nhiều giảng viên giảng dạy thẩm định giá thường cho rằng phương pháp thặng dư là một trong số phương pháp theo cách thu nhập; trong đó, tài sản được định giá (ở đây là đất) tạo ra thu nhập “thặng dư” (theo hàm ý lợi nhuận) cho chủ sở hữu và định giá viên sẽ chiết khấu “phần thặng dư” đó về hiện tại để tính giá trị lô đất.
Điều này dẫn tới nhầm lẫn với phương pháp dòng tiền chiết khấu vì phương pháp dòng tiền chiết khấu cũng chiết khấu phần thu nhập thuần tạo ra từ đất về hiện tại.
Nếu dịch đúng ý nghĩa và bản chất của phương pháp, “residual” trong từ “residual method” là “phần còn lại” và “residual method” là “phương pháp phần còn lại” hay “phương pháp phần dư”.
Việc sử dụng cách dịch “thặng dư” dẫn đến những hiều lầm trong một bộ phận người hành nghề và nhà làm luật như đã đề cập ở trên, trong đó thường thấy là sự liên tưởng sang thuật ngữ “thặng dư” trong kinh tế học chính trị.
Theo RICS 2019 (Royal Institution of Chartered Surveyors, tức Viện Khảo sát công chứng Hoàng Gia Anh), phương pháp phần dư (xin sử dụng cách dịch này đối với phương pháp thặng dư theo quốc tế) là phương pháp định giá (và được sử dụng cả trong thẩm định giá) bất động sản có tiềm năng phát triển bằng cách trừ các chi phí phát triển và lợi nhuận phát triển từ số tiền dự kiến thu được. Phần còn lại hay phần dư (residual value) chính là giá trị đất đai.
Bản chất của phương pháp này rất đơn giản là bài toán tìm nghiệm khi biết tất cả các tham số, do vậy được sử dụng để tìm giá trị còn lại của bất kỳ biến đầu vào nào (trong trường hợp này là giá đất) khi các đầu vào khác được biết trước.
Nếu lợi nhuận nhà phát triển (ở Việt Nam sử dụng tên gọi lợi nhuận nhà đầu tư) là biết trước, phần còn lại (residual value) sẽ là giá trị của đất và ngược lại. Do vậy, không có liên hệ gì giữa giá trị thặng dư (residual value) trong phương pháp thặng dư với giá trị thặng dư (surplus value) và địa tô chênh lệch trong học thuyết của Karl Marx.
Trên thế giới, phương pháp phần dư được áp dụng theo 2 cách: phương pháp phần dư cơ bản (basic residual valuation) hoặc phương pháp phần dư sử dụng kỹ thuật chiết khấu dòng tiền (DCF). Sự khác biệt giữa các phương pháp có liên quan tới các giả định và độ phức tạp của dự án.
Đối với phương pháp phần dư cơ bản (một số tài liệu còn gọi là phương pháp phần dư truyền thống (traditional residual valuation) hay phương pháp phần dư tĩnh (static residual valuation) không đòi hỏi chiết khấu dòng tiền về hiện tại. Mô hình của phương pháp phần dư cơ bản như sau:
Giá trị đất (land value) = Giá trị phát triển gộp (Gross Development Value) – Chi phí phát triển (Development costs) – Lợi nhuận nhà phát triển (Developer’s profit)
Những hạn chế của phương pháp phần dư cơ bản đến từ việc sử dụng những giả định thiếu nghiêm ngặt và phi thực tế. Tuy nhiên các giả định này luôn bị bỏ qua và hiếm khi bị đặt câu hỏi hoặc xem xét lại. Một giải pháp phảp thay thế hiệu quả hơn là phương pháp phần dư sử dụng kỹ thuật DCF.
Theo PwC (2009), phương pháp phần dư sử dụng kỹ thuật DCF khắc phục được sự không rõ ràng trong tính toán lợi nhuận nhà phát triển của phương pháp truyền thống và là giải pháp thay thế mạnh mẽ hơn phương pháp phần dư truyền thống vì các yếu tố đầu vào rõ ràng hơn cả về định lượng và thời gian.
PHƯƠNG PHÁP PHẦN DƯ DƯỚI TÊN GỌI PHƯƠNG PHÁP THẶNG DƯ TRONG DỰ THẢO THÔNG TƯ SỬA ĐỔI THÔNG TƯ 36/2014/TT-BTC
Ở Việt Nam, vừa qua, Cục Quy hoạch và Phát triển tài nguyên đất được giao chủ trì xây dựng dự thảo Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi, bổ sung Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất (sau đây gọi là Dự thảo Thông tư).
Việc ban hành Thông tư sửa đổi được kỳ vọng sẽ giúp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác định giá đất. Tuy nhiên, các quy định mới về phương pháp thặng dư dường như không phù hợp với cả cơ sở lý thuyết lẫn thực tiễn ở Việt Nam.
Dự thảo Thông tư sửa đổi đã đưa ra 2 phương án sửa đổi bổ sung Điều 6 trong Thông tư 36/2014/TT-BTNMT hướng dẫn về phương pháp thặng dư. Cả hai phương án đều có nhiều sai sót trong hướng dẫn áp dụng phương pháp thặng dư. Nội dung kỳ này sẽ chỉ ra những điểm bất hợp lý trong phương án 1 Dự thảo.
Thứ nhất,thiếu sót khi bỏ qua lợi nhuận nhà đầu tư trong phương án 1 Dự thảo
Đối với phương án 1, điểm đáng chú ý và khác biệt nổi bật với quy định trước đây là ban soạn thảo bỏ quy định về chiết khấu các khoản doanh thu, chi phí thực hiện theo từng năm về giá trị hiện tại tại thời điểm định giá đất đối với các trường hợp dự án đầu tư phát triển bất động sản kéo dài nhiều năm.
Điều này không có gì đáng ngạc nhiên như nhiều người nghĩ, vì phương pháp phần dư cơ bản trên thế giới cũng không yêu cầu thực hiện chiết khấu.
Tuy nhiên, điểm bất cập lớn ở đây là quy định hướng dẫn không chiết khấu (theo phương pháp phần dư cơ bản) nhưng lại không trừ đi lợi nhuận nhà đầu tư (còn được gọi là lợi nhuận nhà phát triển trong các văn bản hướng dẫn của quốc tế về phương pháp này).
Theo Thông tư 36, lợi nhuận nhà đầu tư được tính trong chi phí phát triển. Tuy nhiên trong phương án 1 của Dự thảo, tổng chi phí phát triển giả định của bất động sản tại thời điểm định giá được tính bằng chi phí xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo quy hoạch chi tiết xây dựng hoặc bản vẽ tổng mặt bằng xây dựng.
Theo Dự thảo, căn cứ để xác định chi phí xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo thứ tự ưu tiên như sau:
a) Suất vốn đầu tư do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. b) Định mức, đơn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. c) Dự toán đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng thẩm định.
Có thể thấy, chi phí phát triển chỉ bao gồm chi phí xây dựng hạ tầng kỹ thuật mà không có lợi nhuận nhà đầu tư.
Việc bỏ qua lợi nhuận nhà phát triển trong phương pháp thặng dư cơ bản làm sai hẳn bản chất ban đầu của kỹ thuật phần dư (residual technique) và sai so với phương pháp quốc tế.
Nếu chỉ lấy doanh thu bán đất có hạ tầng trừ đi chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng, kết quả phần còn lại (residual value) không phải là giá đất cần xác định, mà bao gồm cả giá đất và lợi nhuận nhà đầu tư.
Thứhai,những nhầm lẫn về lơi nhuận nhà đầu tư trong phương pháp thặng dư và thu nhập chịu thuế tính trước
Có một số ý kiến cho rằng không cần trừ đi lợi nhuận nhà đầu tư vì việc sử dụng suất vốn đầu tư để ước tính một số chi phí nằm trong tổng chi phí phát triển đã bao gồm thu nhập chịu thuế tính trước.
Đây là một cách hiểu đang gây nhiều tranh cãi và thậm chí đã từng xuất hiện trong tranh luận giữa các cơ quan nhà nước. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng việc áp dụng suất đầu tư của Bộ Xây dựng khi xác định chi phí xây dựng trong tổng chi phí phát triển nhưng không loại bỏ khoản thu nhập chịu thuế tính trước 5,5% sẽ dẫn tới việc tính trùng 2 lần lợi nhuận trong chi phí xây dựng, vì theo Thông tư số 36, trong tổng chi phí phát triển đã có lợi nhuận của nhà đầu tư 14% chi phí xây dựng có tính đến yếu tố rủi ro kinh doanh và chi phí tư vấn.
Theo Nghị định 10/2021/NĐ-CP ngày 9/2/2021 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng và Thông tư 11/2021/TT-BXD ngày 31/8/2021 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số nội dung xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng, thu nhập chịu thuế tính trước được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp trong dự toán chi phí xây dựng. Phần thu nhập chịu thuế tính trước trong Chi phí xây dựng bản chất làlợi nhuận của nhà thầu xây dựng(constructor’s profit) (và tương tự, thu nhập chịu thuế tính trước trong Chi phí tư vấn là lợi nhuận tạm tính của đơn vị tư vấn) không phải làlợi nhuận nhà đầu tư/nhà phát triển(nguyên bản trong phương pháp phần dư quốc tế là developer’s profit) trong phương pháp thặng dư.
Bản chất rủi ro của nhà phát triển dự án (developer) khác hẳn rủi ro của nhà thầu xây dựng (constructor), do vậy lợi nhuận của nhà phát triển/nhà đầu tư khác với lợi nhuận nhà thầu xây dựng. Cần phân biệt rõ lợi nhuận của bên cung cấp hàng hóa dịch vụ cho dự án mà nhà đầu tư phải trả (what he pays) và lợi nhuận của nhà đầu tư (what he gets).
Lưu ý rằng trong chi phí phát triển không chỉ có thu nhập chịu thuế tính trước của nhà thầu xây dựng (nằm trong chi phí xây dựng) mà còn có cả thu nhập chịu thuế tính trước của tổ chức tư vấn (nằm trong chi phí tư vấn). Cả hai thu nhập chịu thuế tính trước này đều không phải là lợi nhuận nhà phát triển/nhà đầu tư (developer’s profit) trong phương pháp thặng dư mà là lợi nhuận của người bán hàng hóa, dịch vụ cho nhà đầu tư để thực hiện dự án.
Thứba,chưa phù hợp trong quy định ước tính doanh thu phát triển và chi phí phát triển nêu tại phương án 1 Dự thảo
Phương án 1 của Dự thảo hướng dẫn tính “Tổng doanh thu phát triển giả định của bất động sản tại thời điểm định giá được tính bằngtổng giá trị các thửa đất hoặc khu đất đã được đầu tư hạ tầng kỹ thuậttheo quy hoạch chi tiết xây dựng hoặc bản vẽ tổng mặt bằng xây dựng bằngphương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chiết trừ”.
Như đã trình bày ở trên, theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, giá trị phát triển gộp (gross development value, viết tắt là ) (được các văn bản pháp lý của Việt Nam gọi là Tổng doanh thu phát triển) bản chất chính là tổng giá trị thị trường của bất động sản đã hoàn thành dự án phát triển (value of the completed property) và thường được đề cập như là giá trị phát triển gộp (GDV) hoặc giá trị phát triển ròng (NDV) theo RICS và IVSC.
Tùy theo điều kiện thị trường, loại hình bất động sản phát triển, sự sẵn có về thông tin mà GDV có thể được xác định bằng bất kỳ phương pháp nào trong số các phương pháp vốn hóa thu nhập, phương pháp chiết khấu dòng tiền, phương pháp so sánh và phương pháp chiết trừ hoặc có thể sử dụng kết hợp đồng thời phương pháp chiết khấu dòng tiền và phương pháp so sánh trực tiếp.
Không phải lúc nào cũng sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp, đặc biệt trong trường hợp các tài sản so sánh không tương đồng, hoặc không có thông tin, hoặc độ nhiễu lớn; và tương tự, không phải lúc nào định giá viên/thẩm định viên cũng có thể sử dụng phương pháp chiết trừ.
Chẳng hạn như với dự án phát triển là tòa nhà văn phòng cho thuê, trong điều kiện không có tài sản so sánh tương đồng hoặc thiếu thông tin giao dịch, nhưng lại sẵn có và phổ biến thông tin về giá thuê thì việc định giá bất động sản đã hoàn thành theo cách tiếp cận thu nhập sẽ hiệu quả hơn nhiều (có thể thấy trong ví dụ tại Phụ lục 04 kèm theo Thông tư 36).
Nếu sử dụng cách tiếp cận thu nhập, giá trị của bất động sản tại thời điểm hoàn thành sẽ bằng tổng dòng tiền tương lai được chiết khấu về thời điểm dự án được hoàn thành.
Một người mua tiềm năng đầy đủ hiểu biết sẽ không trả giá cho bất động sản hoàn thành cao hơn lợi ích họ có thể nhận được khi mua tài sản này. Vì vậy, giá trị phát triển gộp (GDV) thông thường được định giá bằng phương pháp dòng tiền chiết khấu và thường kết hợp thêm phương pháp so sánh khi xác định dòng tiền.
Cần lưu ý rằng việc chiết khấu dòng tiền để ước tính giá trị của dự ántại thời điểm hoàn thànhkhác với việc chiết khấu dòng tiềnvề hiện tại(thời điểm định giá) và cách làm này không mâu thuẫn với quy định của phương án 1 là “Bỏ quy định về việc chiết khấu các khoản doanh thu, chi phí thực hiện theo từng nămvề giá trị hiện tại tại thời điểm định giá đất”.
Để dễ hình dung, giả sử lô đất được xem xét phát triển dự án xây dựng khách sạn 3 sao, thời gian hoàn tất việc xây dựng dự án là 2 năm. GDV là giá trị của toàn bộ khách sạn tại thời điểm hoàn thành (năm thứ 2).
Nếu thông tin rao bán khách sạn tương tự là có sẵn, GDV có thể xác định bằng phương pháp so sánh. Nếu không có thông tin giao dịch từ thị trường, GDV có thể được xác định bằng cách tiếp cận thu nhập, tức là ước tính mức giá mà người mua trên thị trường sẵn lòng mua, thông qua việc chiết khấu dòng tiền kỳ vọng tương lai đem lại cho người mua khách sạn về thời điểm dự án hoàn thành (năm thứ 2).
Tuy nhiên cho dù lựa chọn cách tiếp cận so sánh hay thu nhập, giá trị GDV trong mô hình cơ bản vẫn phải là giá trị tại năm thứ 2 chứ không chiết khấu về hiện tại.
Một bất cập khác là theo phương án 1, doanh thu phát triển chỉ giới hạn ở việc xác định giá trị của “thửa đất đã được đầu tư hạ tầng” trong khi không phải lúc nào bất động sản phát triển cũng chỉ là “thửa đất đã được đầu tư hạ tầng” mà còn có công trình xây dựng như tòa nhà văn phòng, trung tâm thương mại, khách sạn, resort, khu vui chơi giải trí, khu đô thị phức hợp căn hộ thương mại, shophouse nhà liền thổ (biệt thự, liền kề),…
Bên cạnh đó, việc xác định chi phí phát triển theo Phương án 1 cũng chỉ tính tới chi phí xây dựng hạ tầng kỹ thuật là bất hợp lý. Việc tính doanh thu phát triển và chi phí phát triển như trên chỉ phù hợp với việc định giá đất đối với các dự án mua đất, làm hạ tầng rồi phân lô bán nền, hoặc làm hạ tầng khu công nghiệp rồi cho thuê đất trả tiền một lần, không có tính tổng quát áp dụng cho các trường hợp dự án phát triển khác.
Tóm lại, đối với phương án 1 của Dự thảo hướng dẫn phương pháp thặng dư, việc không tính lợi nhuận nhà đầu tư và việc xác định doanh thu phát triển, chi phí phát triển đều không phù hợp. Người viết cho rằng Ban soạn thảo không nên sử dụng phương án này.
Trong trường hợp sử dụng phương án 1 như phương pháp phần dư cơ bản của quốc tế (không thực hiện chiết khấu), cần bổ sung thêm lợi nhuận nhà đầu tư. Việc xác định doanh thu phát triển và chi phí phát triển cần mở rộng thay vì chỉ giới hạn đối với dự án xây dựng hạ tầng. Đồng thời bổ sung thêm cách tiếp cận thu nhập để ước tính giá trị các bất động sản đã hoàn thành tại thời điểm hoàn thành.
Những tháng đầu năm 2023, Cục Quản lý giá tiến hành đình chỉ 12 doanh nghiệp thẩm định giá và thu hồi 18 giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá…
Cục Quản lý giá sẽ tiếp tục kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thẩm định giá đối với các doanh nghiệp thẩm định giá và kiểm tra đột xuất.
Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho biết những tháng đầu năm 2023, cơ quan đã cấp, cấp lại và thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; đồng thời, cập nhật thông tin về các doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề, kịp thời thông báo để đảm bảo hoạt động ổn định của các doanh nghiệp cũng như thị trường thẩm định giá.
NÂNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH VIÊN VỀ GIÁ
Cụ thể, vừa qua, Cục Quản lý giá cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cho 7 doanh nghiệp thẩm định giá, cấp lại 66 lượt giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cho các doanh nghiệp thẩm định giá.
Đồng thời, ban hành 14 thông báo về việc danh sách doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được cấp lần đầu, cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá tài sản năm 2023 tại các doanh nghiệp thẩm định giá được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
Cục Quản lý giá cũng tiến hành đình chỉ 12 doanh nghiệp thẩm định giá và thu hồi 18 giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
Gần đây nhất, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 1672/QĐ-BTC về việc thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đối với Công ty TNHH Dịch vụ tài chính và Thẩm định giá Vietvalue kể từ ngày 3/8; Quyết định số 1741/QĐ-BTC về việc thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đối với Công ty cổ phần Topenvalue kể từ ngày 11/8…
Theo đó, Công ty Vietvalue, Công ty Topenvalue có trách nhiệm nộp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá có mã số 124/TĐG trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày quyết định có hiệu lực.
Đồng thời, các doanh nghiệp phải chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá kể từ ngày thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm định giá.
Cũng theo Cục Quản lý giá, vào trung tuần tháng 7, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 1499/QĐ-BTC cấp thẻ cho 161 thí sinh đủ điều kiện cấp thẻ tại kỳ thi thẩm định viên về giá do Hội đồng thi thẩm định viên về giá kỳ thi lần thứ 15 do Bộ Tài chính tổ chức.
Trong 6 tháng đầu năm 2023 tổ chức đào tạo 1 lớp đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá cho các cá nhân có nhu cầu dự thi thẻ thẩm định viên về giá; 3 lớp cập nhật kiến thức cho các thẩm định viên về giá và 6 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá (thẩm định giá nhà nước) cho các cán bộ, công chức tại một số địa phương trên cả nước.
Hiện nay, Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá) cũng hoàn thiện và đưa vào vận hành, khai thác hệ thống phần mềm cơ sở dữ liệu quốc gia về giá giai đoạn 2…
CHỦ ĐỘNG RÀ SOÁT, CHẤP HÀNH NGHIÊM PHÁP LUẬT VỀ THẨM ĐỊNH GIÁ
Bên cạnh đó, nhiều quy định mới sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thẩm định giá sắp tới, đặc biệt là Luật Giá số 16/2023/QH15 đã được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2023 (sau đây gọi là Luật Giá năm 2023) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024.
Luật Giá năm 2023 bao gồm 8 chương, 75 điều, trong đó chương 6 quy định về hoạt động thẩm định giá có những điểm mới như: tăng số lượng thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp từ ít nhất 3 lên ít nhất 5 thẩm định viên về giá. Đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần bổ sung điều kiện tổng số vốn góp của các thành viên hoặc cổ đông là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp phải chiếm tỷ lệ trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Ngoài ra, tăng số lượng thẩm định viên tại chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá ít nhất 2 lên ít nhất 3 thẩm định viên về giá.
Theo đó, các doanh nghiệp thẩm định giá đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định viên giá theo quy định tại Luật Giá số 11/2012/QH13 được chuyển tiếp đến ngày 1/7/2025 phải đáp ứng được điều kiện trên.
Trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá không bảo đảm điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định tại Luật Giá năm 2023, Bộ Tài chính thực hiện thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
Cũng theo Cục Quản lý giá, khi Luật Giá 2023 có hiệu lực thi hành, điều kiện hành nghề của thẩm định viên về giá cũng có sự thay đổi khi yêu cầu người đăng ký hành nghề phải có tổng thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá với trình độ đại học trở lên đủ 36 tháng.
Trường hợp làm việc với trình độ đại học trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá theo chương trình định hướng ứng dụng theo quy trình của pháp luật thì tổng thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá đủ 24 tháng trở lên.
Để triển khai thi hành Luật kịp thời, đồng bộ, thống nhất, ngày 4/8 vừa qua, Bộ Tài chính có Công văn số 8278/BTC-QLG gửi các doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá hành nghề yêu cầu các doanh nghiệp chủ động rà soát, bảo đảm điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Luật Giá 2023.
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện rà soát hồ sơ cấp, cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cho các doanh nghiệp thẩm định giá; rà soát và thông báo danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá tài sản năm 2023.
Đồng thời, thực hiện giám sát các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và cấp giấy chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá cho các thẩm định viên về giá; bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá cho các địa phương có nhu cầu.
Bên cạnh đó, Cục Quản lý giá sẽ triển khai thực hiện kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thẩm định giá đối với các doanh nghiệp thẩm định giá và kiểm tra đột xuất theo yêu cầu; tổ chức hội nghị thường niên giám đốc các doanh nghiệp thẩm định giá năm 2023; tổ chức thi thẻ thẩm định viên về giá năm 2023…
Xin hỏi giá dịch vụ thẩm định giá hiện nay được tính dựa trên những căn cứ, thỏa thuận nào? – Thùy Trang (Long An)
Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào? (Hình từ internet)
Thẩm định giá là gì?
Theo khoản 15 Điều 4 Luật Giá 2012 quy định:
Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.
– Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
– Khách hàng thẩm định giá là tổ chức, cá nhân thuê doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá hoặc văn bản yêu cầu, đề nghị thẩm định giá.
– Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá là tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật trên cơ sở tham gia tự nguyện của các thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong lĩnh vực thẩm định giá.
– Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam là những quy định về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp thực hành thẩm định giá dùng làm chuẩn mực để phục vụ hoạt động thẩm định giá tài sản, kiểm tra, đánh giá kết quả và chất lượng hoạt động thẩm định giá tại Việt Nam. (Theo Nghị định 89/2013/NĐ-CP)
Giá dịch vụ thẩm định giá được tính thế nào?
Giá dịch vụ thẩm định giá được quy định tại Điều 11 Nghị định 89/2013/NĐ-CP, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 12/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:
(1) Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá theo quy định tại khoản (2), (3) trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá;
Trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
(2) Các căn cứ xác định giá dịch vụ thẩm định giá:
– Nội dung, khối lượng, tính chất công việc và thời gian thực hiện thẩm định giá;
– Chi phí kinh doanh thực tế hợp lý tương ứng với chất lượng dịch vụ gồm: Chi phí tiền lương, chi phí phát sinh trong quá trình khảo sát, thu thập, phân tích, xử lý thông tin; chi phí tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và các chi phí khác theo quy định của pháp luật;
– Chi phí mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc chi phí trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp;
– Lợi nhuận dự kiến (nếu có) đảm bảo giá dịch vụ thẩm định giá phù hợp mặt bằng giá dịch vụ thẩm định giá tương tự trên thị trường;
– Các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
(3) Căn cứ quy định tại Khoản (2), doanh nghiệp thẩm định giá ban hành và thực hiện niêm yết biểu giá dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp mình theo quy định tại Khoản 6 Điều 4, Khoản 5 Điều 12 Luật Giá bằng hình thức mức giá dịch vụ trọn gói, theo tỷ lệ phần trăm (%) của giá trị tài sản hoặc giá trị dự án cần thẩm định giá và hình thức khác do doanh nghiệp quyết định phù hợp với các quy định của pháp luật.