Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 7 2023

Định giá đất sẽ lùi về 16 năm trước nếu bỏ phương pháp thặng dư, thu nhập?

(VNF) – Phương pháp thặng dư và phương pháp thu nhập là các phương pháp định giá tiếp cận từ thu nhập, quy đổi theo dòng tiền (DCF) trong tương lại về thời điểm định giá dựa trên cơ sở thông tin kỹ thuật cụ thể của từng thửa đất, dự án, phù hợp về lý thuyết thẩm định giá đã từ lâu được sử dụng rộng rãi trên thế giới cũng như đã được áp dụng ổn định tại Việt Nam hơn 15 năm. Việc bỏ hai phương pháp này sẽ đưa công tác định giá đất quay ngược về thời kỳ trước năm 2007.

Định giá đất sẽ lùi về 16 năm trước nếu bỏ phương pháp thặng dư, thu nhập?

Công tác định giá đất sẽ lùi về 16 năm trước nếu bỏ phương pháp thặng dư, thu nhập?

Chính sách xác định giá đất hiện hành và vướng mắc cần tháo gỡ

Khi xem xét 5 phương pháp định giá đất cụ thể hiện hành, có thể thấy một số vấn đề đáng nói. Chẳng hạn như phương pháp chiết trừ chỉ nên xác định là kỹ thuật hỗ trợ cho các phương pháp khác vì kết quả của phương pháp này không cho ra giá đất. Hay như phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất (gọi tắt là phương pháp hệ số điều chỉnh) thực chất là phương pháp xây dựng bảng giá đất nhưng khác về thời điểm cũng tương tự như phương pháp so sánh nhưng thay vì phải hồi quy về thửa đất cụ thể thì chỉ cần chia bình quân giá của các tài sản so sánh để xác định ra giá đất theo vùng, tuyến, khu vực.

Hiện nay phương pháp hệ số điều chỉnh đang quy định tại Nghị định 44/2014/NĐ-CP thuộc nhóm xác định giá đất cụ thể là không phù hợp với đặc điểm chuyên môn, nhưng nếu phân chia đúng bản chất nghiệp vụ sẽ có 2 nhóm phương pháp xác định giá đất gồm:

Nhóm phương pháp xác định theo vùng – tuyến – khu vực: có mức độ chính xác thấp hơn vì không thực hiện xác định giá đất theo đặc điểm từng thửa đất mà chỉ cần chia bình quân là cho kết quả xác định giá đất cả vùng, tuyến đường, khu vực; Đối tượng áp dụng làm căn cứ để áp giá vào các trường hợp phải lặp lại hàng năm hoặc diễn ra với tần suất nhiều, giá trị thấp (phí lệ phí, phạt hành chính, GPMB …), tương tự như bảng giá tính thuế chuyển nhượng ô tô xe máy; bảng giá, giá làm căn cứ tính lệ phí trước bạ đối với nhà và thuế thu nhập cá nhân đối với việc chuyển nhượng nhà hiện nay. Nhóm này phương pháp này gồm: phương pháp xây dựng bảng giá đất và hệ số điều chỉnh (tuy nhiên Nghị định 44/2014/NĐ-CP đang xác định phương pháp hệ số điều chỉnh là giá đất cụ thể là chưa phù hợp với lý thuyết) đang áp dụng đối với thửa đất có giá trị theo bảng giá đất dưới 20-30 tỷ đồng tuỳ địa phương.

Nhóm phương pháp xác định giá đất cụ thể: có mức độ chính xác cao do thông tin giá chuyển nhượng trên thị trường (tài sản so sánh) phải so sánh điều chỉnh (hay còn gọi là hồi quy) về đặc điểm của thửa đất cần định giá, thường được áp dụng trong các trường hợp nghĩa vụ tài chính về đất đai có giá trị lớn như: giao đất có thu tiền sử dụng đất; cho thuê đất trả tiền 1 lần, cho thuê lần đầu; xác định nghĩa vụ tài chính bổ sung … đang đối với thửa đất có giá trị theo bảng giá đất trên 20-30 tỷ đồng tuỳ địa phương, các phương pháp xác định giá đất cụ thể gồm phương pháp so sánh,thu nhập, thặng dư có quy trình phức tạp, phải thuê tư vấn và thông qua Hội đồng định giá đất phê duyệt đến từng thửa đất cụ thể.

Trong đó phương pháp thặng dư và phương pháp thu nhập thuộc cách tiếp cận từ thu nhập, dễ hiểu hơn là định giá đất theo khả năng sinh lời trong toàn bộ thời gian thuê đất nhất định quy về thời điểm định giá (tương tự như tính hiệu quả đầu tư dự án), thường được sử dụng trong xác định giá các thửa đất, dự án sử dụng đất phi nông nghiệp (xây dựng công trình thương mại dịch vụ) do không có thông tin thị trường chuyển nhượng đủ mức tương đồng để so sánh điều chỉnh (thường khác nhau về vị trí, công năng sử dụng, thông tin quy hoạch …).

Để tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá đất cụ thể của các địa phương do lo ngại trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về tính chính xác của phương pháp thu nhập, thặng dư do phụ thuộc quá nhiều vào các giả định mang tính chủ quan, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 44/2014/NĐ-CP và Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT (sau đây viết tắt là dự thảo) sẽ loại bỏ phương pháp thặng dư và phương pháp thu nhập (lưu ý là phương pháp thu nhập trong dự thảo chỉ hướng dẫn áp dụng cho xác định giá đất nông nghiệp rất ít được sử dụng mà không áp dụng đối với đất sử dụng vào mục đích thương mại dịch vụ).

Quy định chuyên môn về phương pháp so sánh và hệ số điều chỉnh có làm thất thu ngân sách?

Phương pháp hệ số điều chỉnh và phương pháp so sánh rất phù hợp với các thửa đất ở nhỏ lẻ, là phương pháp đáng tin cậy, do có thể thu thập được thông tin giao dịch thành công tương đồng trên thị trường lấy kết quả định giá đất là giá giao dịch thành công bình quân của 3 thửa đất giống như phương pháp xây dựng bảng giá đất phù hợp với yêu cầu phải định giá nhiều thửa đất theo vùng, tuyến, khu vực trong khi phương pháp so sánh phải điều chỉnh (hồi quy) về từng thửa đất cụ thể. Bản chất đều phải là sử dụng thông tin giao dịch thành công trên thị trường có tính tương đồng về vị trí, quy mô, mục đích … không phù hợp khi sác định giá đất phi nông nghiệp (đất thương mại, dịch vụ, văn phòng) rất hạn chế thông tin giao dịch của thửa đất có quy mô đầu tư tương tự, hầu như không thể áp dụng được phương pháp so sánh.

Yêu cầu thu thập thông tin chuyển nhượng thành công phải đảm bảo “khoảng cách gần nhất đến khu đất cần định giá”, “phổ biến trên thị trường”, giá đất đấu giá “tại cơ quan thi hành án, tổ chức tín dụng, cá nhân có quyền sử dụng đất đưa ra bán đấu giá” tức là người làm công tác định giá đất (tư vấn và thành viên hội đồng định giá) phải có sẵn quỹ thông tin đầy đủ giao dịch thị trường đã được xử lý, đây là mong muốn của việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai (big data) đang kỳ vọng có thể thực hiện được theo Luật Đất đai (sửa đổi) mà chưa thể thực hiện ngay.

Dự thảo quy định trong mẫu phiếu thu thập thông tin chuyển nhượng thành công phải có chữ ký của người được điều tra, không thừa nhận giá phỏng vấn. Giá đất giao dịch thành công thu thập hiện nay nếu không qua phỏng vấn là không phù hợp với tập quán thương mại trong thị trường bất động sản đang tồn tại 2 giá đã được nói đến rất nhiều lần, thậm chí cả các Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính đã ra rất nhiều văn bản từ 3 năm gần đây nhưng không khắc phục được.

Thời gian qua đã được chứng minh, ngay từ sau khi Thông tư 36/2014/TT-BTNMT không thể triển khai được do người được phỏng vấn lo ngại vấn đề truy thu thuế, thậm chí khởi tố hình sự do trốn thuế, không bao giờ xác nhận cung cấp thông tin giá giao dịch khác với giá ghi trên hợp đồng hay các sàn giao dịch bất động sản không dám cung cấp thông tin và chịu trách nhiệm xác nhận giá chuyển nhượng khác với giá ghi trên hợp đồng do không có căn cứ, dễ bị khiếu nại, vi phạm quy định về tiết lộ thông tin khách hàng nhưng nên và Bộ Tài nguyên Môi trường đã phải ban hành Quyết định 1351/QĐ-BTNMT để bỏ yêu cầu này.

Nếu chỉ lấy giá trị giao dịch thành công ghi trên hợp đồng, thường chỉ tương đương bảng giá đất, sẽ gây thất thu rất lớn trong các trường hợp tính tiền sử dụng đất theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất đối với khu đất được áp dụng các xác định giá đất theo phương pháp hệ số điều chỉnh cho nhà đầu tư trúng đấu thầu dự án có sử dụng đất đến thời điểm bàn giao đất phải xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai để triển khai đầu tư; các trường hợp giao đất không qua đấu giá như: phải xác định nghĩa vụ tài chính bổ sung do thay đổi quy hoạch; bàn giao đất sau khi hoàn thành giải phóng mặt bằng … đáng ra phải thực hiện theo phương pháp thặng dư theo thông tin quy hoạch sử dụng đất cụ thể.

Dự thảo quy định giá giao dịch thành công chỉ được lấy theo giá trên hợp đồng chuyển nhượng đất là để giảm trách nhiệm cho người thực hiện chỉ cần ghi nhận giá trị chuyển nhượng trên hợp đồng (có căn cứ) luôn thấp hơn giá trị chuyển nhượng thực tế (không có căn cứ, khó đối chiếu), tức là giảm được tỷ lệ rủi ro về nhận định thị trường của phương pháp dòng tiền nhưng lại phát sinh khả năng không thể thu thập được thông tin thị trường và rủi ro lớn về nhận định tỷ lệ điều chỉnh từng yếu tố không tương đồng. Hơn nữa, nếu quy định yêu cầu phải thu thập được thông tin giao dịch thành công để xây dựng lại hệ số như dự thảo sẽ tạo ra nút thắt mới, bịt đi tất cả các phương pháp định giá đất có thể thực hiện (bao gồm cả hệ số điều chỉnh và so sánh) vì nếu làm chắc chắn sai do không thể đáp ứng được yêu cầu của dự thảo.

Dùng biện pháp quy đổi đất ở sang đất TMDV để bỏ phương pháp thặng dư và thu nhập có đáng tin cậy?

Để khắc phục nhược điểm là không có thông tin chuyển nhượng thành công thửa đất, dự án tương đồng, dự thảo đã cho phép chuyển đổi (nội suy) từ đất ở nhỏ lẻ sang đất thương mại dịch vụ bằng cách xác định giá đất ở nhỏ lẻ theo phương pháp so sánh nhân (x) với “mức chênh lệch theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa giá đất ở và giá đất của loại đất cần định giá trong bảng giá đất”

Việc quy đổi như vậy sẽ dẫn đến giá đất của các thửa đất có hệ số sử dụng đất bị cào bằng, công năng sử dụng công trình khác nhau nhưng sẽ có giá đất bằng nhau, sẽ không còn chính sách phải xác định nghĩa vụ tài chính bổ sung khi chủ đầu tư được phê duyệt thay đổi quy hoạch, tăng diện tích xây dựng (có thể tăng lợi nhuận) như hiện nay.

Về mặt chuyên môn của phương pháp so sánh, các thông tin của tài sản so sánh thu thập được phải thực hiện so sánh cặp với thửa đất cần định giá sẽ thấy không đảm bảo xác định là tương đồng theo quy định tại điểm 3, khoản 5 Điều 1 dự thảo sửa đổi Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định: “khi áp dụng các phương pháp so sánh phải ưu tiên lựa chọn thửa đất so sánh theo thứ tự: a) Tương đối giống nhau về vị trí, diện tích, kích thước, mật độ xây dựng, chiều cao công trình, điều kiện kết cấu hạ tầng…” cụ thể như các yếu tố tác động đến giá của nhà cao tầng, diện tích lớn, mục đích sử dụng đất kinh doanh để so với nhà thấp tầng, diện tích nhỏ, mục đích để ở quá chênh lệch, không thể có chung nguyên tắc điều chỉnh để đưa ra tỷ lệ điều chỉnh phù hợp, ví dụ nêu trong ví dự 2 Phụ lục 1 của dự thảo sửa đổi Thông tư 36/2014/TT-BTNMT đang điều chỉnh không hợp lý, không đưa ra được nguyên tắc điều chỉnh thống nhất, khoa học. Đây là điểm yếu quan trọng nhất của dự thảo khi giảm được tỷ lệ rủi ro về nhận định dự báo chủ quan … của phương pháp thu nhập, thặng dư nhưng lại phát sinh rủi ro lớn về nhận định tỷ lệ điều chỉnh của từng yếu tố của phương pháp so sánh.

Hơn nữa, tỷ lệ quy đổi giá đất ở sang giá đất thương mại dịch vụ trong bảng giá đất hiện nay đang không chính xác do áp dụng khung giá đất và tỷ lệ quy đổi mỗi nơi một khác, không dựa trên cơ sở khoa học, thống kê.

Đóng góp ý kiến vào dự thảo

Do đối tượng điều chỉnh và tác động của chính sách rất lớn đến rất nhiều đến thu chi ngân sách và các thành phần kinh tế trong xã hội, cần thiết phải có nghiên cứu kỹ và được đánh giá tác động lên nguồn thu ngân sách bằng việc áp dụng thử vào các dự án đã được phê duyệt để có đánh giá khách quan, đảm bảo chính sách ban hành đảm bảo khoa học, khả thi và ổn định nguồn thu ngân sách cũng như đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất.

Các kiến nghị xem xét lại trong dự thảo gồm:

Thứ nhất: xác định giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường theo giá phỏng vấn nhưng không nên yêu cầu người được phỏng vấn cung cấp thông tin cá nhân và ký xác nhận như hiện nay, giảm bớt yêu cầu về thống kê, sàng lọc thông tin thị trường khi chưa có hệ thống quản lý dữ liệu về đất đai đồng bộ, chất lượng.

Thứ hai: phương pháp hệ số điều chỉnh chỉ áp dụng để điều chỉnh bảng giá đất hàng năm khi bnagr giá đang được lập 5 năm như hiện nay; không coi phương pháp hệ số điều chỉnh là phương pháp xác định giá đất cụ thể và thay bằng phương pháp so sánh để xác định giá đất cụ thể thực hiện tại từng thời điểm với các thửa đất cần xác định giá đất giải phóng mặt bằng, tái định cư, xác định giá khởi điểm bán đấu giá.

Thứ ba: giữ nguyên phương pháp thu nhập thặng dư như hiện nay, giao cho các địa phương tự tổ chức xem xét ban hành các chỉ số áp dụng trong phương pháp thu nhập, thặng dư đang áp dụng; hướng dẫn chi tiết khung khoảng điều chỉnh, yếu tố điều chỉnh phù hợp với đặc điểm thị trường bất động sản của mỗi địa phương để giảm thiểu khả năng rủi ro phải chịu trách nhiệm của người làm công tác định giá.

Thứ tư: nếu vẫn bỏ phương pháp thặng dư và thu nhập như dự thảo thì cần sử dụng các thông số kỹ thuật của thửa đất cụ thể đã thực hiện để áp dụng phương pháp so sánh đất thấp tầng với nhà cao tầng, hướng dẫn tỷ lệ điều chỉnh chung cho người làm công tác định giá đất có căn cứ điều chỉnh;

Xác định hệ số chênh lệch đất ở và đất thương mại dịch vụ trên cơ sở số liệu thống kê của các thửa đất, dự án đã thực hiện một cách khoa học để đưa ra hệ số quy đổi đảm bảo tính khoa học trên số liệu thống kê cụ thể; xem xét tác động của việc thay đổi hệ số điều chỉnh giá đất như dự thảo sẽ tác động đến các đối tương áp dụng như các khoản thu chi của ngân sách cũng như tác động đến khoản chi thường xuyên của người sử dụng đất.

Tháo gỡ, thay đổi chính sách cần dựa trên nghiên cứu để kết hợp lý thuyết và thực tiễn

Việc lo ngại của cơ quan soạn thảo khi không thừa nhận hai phương pháp thặng dư và thu nhập với lý do kết quả định giá kém chính xác vì phụ thuộc quá nhiều vào giả định, dự báo chủ quan của người làm công tác định giá để loại bỏ phương pháp định giá khoa học đã được chứng minh như trong dự thảo là không hợp lý.

Do đặc tính riêng có của đất đai như tập quán, quy hoạch xây dựng, mục đích sử dụng đất, thời điểm, biến động thị trường… của mỗi dự án có sử dụng đất đều khác nhau nên không thể áp dụng phương pháp so sánh để so sánh điều chỉnh (hồi quy) về thửa đất cần định giá nên cần thiết phải tiếp cận giá đất từ thu nhập trên cơ sở dự báo của thửa đất mang lại cho chủ đầu tư hoặc nếu áp dụng thì vẫn tồn tại khó khăn khi xác định tỷ lệ điều chỉnh không theo một nguyên tắc trong cùng một yếu tố tác động đến giá.

Tóm lại, các phân tích nêu trên cho thấy dự thảo sử dụng các phương pháp so sánh và hệ số điều chỉnh giá đất để thay thế các phương pháp thặng dư, thu nhập và việc quy đổi từ đất ở sang đất thương mại dịch vụ đang thiếu khoa học, còn nhiều bất cập cả về lý thuyết lẫn thực tiễn; yêu cầu thu thập thông tin thị trường là quá cao, không thực tế, chưa phản ánh đúng và chưa thể khắc phục được hạn chế của thị trường bất động sản chưa minh bạch.

Phương pháp thặng dư và phương pháp thu nhập là các phương pháp định giá tiếp cận từ thu nhập, quy đổi theo dòng tiền (DCF) trong tương lại về thời điểm định giá dựa trên cơ sở thông tin kỹ thuật cụ thể của từng thửa đất, dự án, phù hợp về lý thuyết thẩm định giá đã từ lâu được sử dụng rộng rãi trên thế giới cũng như đã được áp dụng ổn định tại Việt Nam trong hơn 15 năm qua. Việc bỏ hai phương pháp này sẽ đưa công tác định giá đất quay ngược về thời kỳ trước năm 2007, như trước thời điểm ban hành Nghị định 123/2007/NĐ-CP và Thông tư 145/2007/TT-BTC hướng dẫn xác định giá đất theo Luật Đất đai năm 2003.

Luật Giá sửa đổi quản hoạt động thẩm định giá như thế nào?

Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) bổ sung nhiều quy định chặt chẽ hơn về điều kiện thẩm định viên về giá, siết chặt điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp, nhằm tạo hàng rào kỹ thuật ngăn tiêu cực từ một lĩnh vực tương đối nhạy cảm…

Nhiều vụ sai phạm bị phanh phui thời gian qua do các thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá “tiếp tay”.
Nhiều vụ sai phạm bị phanh phui thời gian qua do các thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá “tiếp tay”.

Thông tin về một số điểm mới về dịch vụ thẩm định giá tại dự thảo Luật Giá sửa đổi, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), cho biết trong dự án Luật giá sửa đổi trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 năm 2023 đã được ban soạn thảo hoàn thiện những bất cập theo hướng củng cố, tăng cường tiêu chuẩn, điều kiện của thẩm định viên về giá, nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của thẩm định viên trong hoạt động thẩm định giá.

Đồng thời, xử lý các chồng chéo, vướng mắc trong quản lý thẩm định viên về giá; bổ sung, hoàn thiện các quy định về giám sát, quản trị doanh nghiệp, nhất là đối với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.

ĐÁP ỨNG ĐIỀU KIỆN GÌ ĐỂ TRỞ THÀNH THẨM ĐỊNH VIÊN VỀ GIÁ?

Dự thảo Luật Giá sửa đổi về cơ bản kế thừa quy định hiện hành, có sửa đổi, bổ sung, kết cấu lại cho phù hợp với tính chất của hoạt động thẩm định giá. Theo đó, tại nội dung về giải thích từ ngữ đã quy định: “Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị bằng tiền của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam”.

Dự thảo luật cơ bản kế thừa các quy định hiện hành và củng cố theo hướng chuyên môn hóa hoạt động của thẩm định viên theo lĩnh vực tài sản.

Theo đó, thẻ thẩm định viên về giá được chuyên môn hóa theo hai lĩnh vực gồm: (i) thẩm định giá tài sản gồm bất động sản, động sản và các hàng hóa, dịch vụ thông thường; (ii) thẩm định giá doanh nghiệp: doanh nghiệp, tài sản tài chính…

“Điều này góp phần nâng cao chất lượng thẩm định viên theo lĩnh vực chuyên môn sâu, cũng như tiết kiệm nguồn lực xã hội trong học tập, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, thi cấp thẻ thẩm định viên về giá”, đại diện Cục Quản lý giá nhìn nhận.

Cũng theo quy định của luật hiện hành, thẩm định viên về giá không được hành nghề với tư cách cá nhân; người có thẻ thẩm định viên về giá khi có nhu cầu hành nghề thẩm định giá phải gắn với hoạt động của doanh nghiệp.

Do đó, trên cơ sở kế thừa các quy định hiện hành, luật sửa đổi đã quy định rõ hơn việc đăng ký hành nghề với Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá để được công nhận là thẩm định viên về giá.

Trên cơ sở đó cũng khắc phục được hạn chế tại luật hiện hành là không quy định cách thức xác nhận một người được coi là thẩm định viên về giá nên chưa bảo đảm tính chặt chẽ, có thể gây nhầm lẫn khi coi người có thẻ thẩm định viên về giá đồng thời là thẩm định viên về giá.

Do vậy, tại dự thảo luật quy định thẩm định viên về giá phải là những người có thẻ thẩm định viên và đang hành nghề thẩm định giá tại các doanh nghiệp thẩm định giá.

“Điều kiện để đăng ký hành nghề phải là người có thẻ thẩm định viên và có kinh nghiệm 36 tháng làm việc thực tế tại doanh nghiệp thẩm định giá để nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá”, Cục Quản lý giá nhấn mạnh.

SIẾT QUY ĐỊNH, TĂNG CƯỜNG TÍNH RĂN ĐE

Nhằm quản lý chặt chẽ hơn đối với các thẩm định viên về giá, theo đại diện Cục Quản lý giá, dự án Luật Giá sửa đổi cũng quy định về những điều cấm đối với thẩm định viên về giá, quy định một số trường hợp xử lý đối với thẩm định viên về giá khi vi phạm pháp luật về thẩm định giá như: tước thẻ, thu hồi thẻ thẩm định viên về giá.

Qua đó, tăng cường tính răn đe đối với thẩm định viên, góp phần yêu cầu các thẩm định viên không ngừng cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.

Đồng thời, dự thảo luật yêu cầu các công ty tăng cường về số lượng thẩm định viên tại doanh nghiệp thẩm định giá.

“Trước đây, mỗi doanh nghiệp thẩm định giá chỉ cần có từ 3 thẻ thẩm định viên thì nay phải có từ 5 thẻ thẩm định viên trở lên. Tại mỗi chi nhánh phải có ít nhất 3 thẻ thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp và các chi nhánh khác thay vì quy định trước đây chỉ cần 2 thẻ thẩm định viên về giá”, đại diện Cục Quản lý giá thông tin.

Cùng với đó, các doanh nghiệp có trách nhiệm mua bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp hoặc trích lập quỹ dự phòng.

“Đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thì bổ sung quy định tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn, cổ đông là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Quy định này nhằm đảm bảo quyền chi phối của thẩm định viên đối với hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá”, đại diện Cục Quản lý giá cho biết.

Trên cơ sở luật hóa quy định tại nghị định, dự thảo luật cũng bổ sung một điều về người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá để nâng cao tính pháp lý; đồng thời, tiếp tục khẳng định giá trị pháp lý của các quy định này trong thực tiễn quản lý hoạt động thẩm định giá.

Ngoài ra, dự thảo luật củng cố quy định về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá nhằm quản lý chặt chẽ hơn hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp có biến động về thẩm định viên về giá ảnh hưởng đến điều kiện hoạt động.

Dự thảo luật cũng đã củng cố và làm rõ hơn quyền và nghĩa vụ mà nhất là nghĩa vụ của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá trong hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá.

Về giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá về kết quả thẩm định giá.

Theo quy định thì mối quan hệ giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng được thực hiện thông qua hợp đồng thẩm định giá và là hợp đồng dân sự.

Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua các cơ chế sau: (i) thương lượng, hòa giải trên cơ sở những cam kết đã ghi trong hợp đồng thẩm định giá; (ii) giải quyết bằng trọng tài thương mại; (iii) khởi kiện tại tòa án theo quy định của pháp luật.

Để tạo điều kiện cho các bên và làm rõ cơ chế giải quyết tranh chấp, tại dự thảo luật quy định một điều để dẫn chiếu các quy định hiện hành để thực hiện khi có phát sinh.

Những điểm chưa hợp lý trong phân loại thẩm định viên về giá tại Dự thảo Luật Giá sửa đổi

Mặc dù phân loại thẩm định viên theo lĩnh vực thẩm định giá hay loại hình tài sản là một bước tiến bộ và cũng là xu thế tất yếu; tuy nhiên, việc phân loại theo lĩnh vực thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp như tại Dự thảo Luật Giá sửa đổi vẫn có những điểm chưa hợp lý và tiềm ẩn sự chồng chéo, bất cập sau này…

Thẩm định giá là một lĩnh vực liên ngành.
Thẩm định giá là một lĩnh vực liên ngành.

Tại Dự thảo Luật Giá (sửa đổi), Bộ Tài chính đã bổ sung nhiều quy định mới trong việc quản lý lĩnh vực thẩm định giá nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định giá, ngăn ngừa tiêu cực. Đáng chú ý là việc cấp thẻ thẩm định viên về giá theo lĩnh vực thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp. Đây là một bước tiến trong Luật Giá sửa đổi. Tuy nhiên, còn những điểm chưa phù hợp trong việc phân loại thẩm định viên theo lĩnh vực tại dự luật.

PHÂN LOẠI THẨM ĐỊNH VIÊN THEO LOẠI HÌNH TÀI SẢN ĐỊNH GIÁ

Hiện nay, tại Việt Nam, người được cấp thẻ thẩm định viên về giá có thể tham gia thẩm định giá mọi tài sản ở các lĩnh vực khác nhau, từ đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng, mỏ quặng đến các động sản như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện chuyên dụng, hàng hóa, cây cối, tài sản tài chính, tác phẩm nghệ thuật, tài sản vô hình, doanh nghiệp…

Để được cấp thẻ Thẩm định viên về giá của Bộ Tài chính, người hành nghề sẽ phải trải qua kỳ thi sát hạch gồm 1 môn ngoại ngữ và 5 môn chuyên ngành: (i) pháp luật áp dụng trong lĩnh vực giá và thẩm định giá; (ii) nguyên lý hình thành giá cả thị trường và nguyên lý căn bản về thẩm định giá; (iii) thẩm định giá bất động sản; (iv) thẩm định giá máy, thiết bị; (v) thẩm định giá doanh nghiệp.

Vì thẩm định giá là một lĩnh vực liên ngành, thẩm định viên về giá cần phải được trang bị một lượng kiến thức rất rộng. Trong khi đó, việc dàn trải quá nhiều loại hình tài sản của nhiều lĩnh vực khác nhau (trong đó có những tài sản đặc thù) khiến thẩm định viên thiếu đi sự chuyên sâu cần thiết của một người làm lĩnh vực tư vấn.

Theo ông Phạm Văn Bình, Trưởng phòng Thẩm định giá, Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính – đơn vị chủ trì soạn thảo Luật Giá sửa đổi, số liệu thống kê cho thấy chỉ có khoảng 20-30% thẩm định viên về giá tham gia thẩm định giá doanh nghiệp, tài sản tài chính, còn 70-80% chủ yếu thực hiện thẩm định giá bất động sản và động sản. Trong khi đó, việc thẩm định giá giá trị doanh nghiệp và tài sản tài chính đòi hỏi người hành nghề phải có kiến thức rất sâu về kế toán và phân tích tài chính.

Hiện nay, nhiều thẩm định viên về giá mặc dù không bao giờ làm thẩm định giá doanh nghiệp nhưng vẫn phải học đầy đủ và thi môn thẩm định giá doanh nghiệp; đồng thời, phải tham gia học cập nhật kiến thức bắt buộc hàng năm đối với cả nội dung này. Do vậy, việc chuyên môn hóa hoạt động của thẩm định viên theo lĩnh vực như Dự thảo Luật Giá sửa đổi được kỳ vọng sẽ giúp thẩm định viên tập trung bồi dưỡng những kiến thức kỹ năng chuyên sâu và giảm tải những môn học không thuộc định hướng; từ đó, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá theo hướng chuyên nghiệp.

NHỮNG ĐIỂM CHƯA HỢP LÝ

Mặc dù phân loại thẩm định viên theo lĩnh vực thẩm định giá hay loại hình tài sản là một bước tiến bộ và cũng là xu thế tất yếu; tuy nhiên, việc phân loại theo lĩnh vực thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp như tại dự luật vẫn có những điểm chưa hợp lý và tiềm ẩn sự chồng chéo, bất cập sau này.

Trong dự thảo Luật Giá hiện nay chưa quy định rõ thế nào là “thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản” và thế nào là “thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp”. Để hiểu được “lĩnh vực thẩm định giá tài sản” gồm những nội dung nào, trước hết cần phải hiểu khái niệm về đối tượng thẩm định giá – “tài sản”.

Mặc dù Dự thảo Luật Giá không đưa ra định nghĩa tài sản, tuy nhiên Bộ Tài chính cũng đã đưa ra ý kiến giải trình lý do không giải thích từ ngữ “tài sản” vì khái niệm tài sản đã được quy định tại Bộ Luật dân sự.

Theo Điều 105 Luật Dân sự 2015, tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của Tòa án Nhân dân tối cao đã đưa ra hướng dẫn như sau:

“Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, thì giấy tờ có giá bao gồm:

a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;

c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009;

d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);

đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp”…

Như vậy, từ những căn cứ pháp lý trên, người được cấp thẻ thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản sẽ thực hiện thẩm định giá tài sản, bao gồm cả tài sản là giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư. Đây là những tài sản tài chính và đòi hỏi thẩm định viên phải có kiến thức tài chính chuyên sâu mới có thể thẩm định giá các “tài sản” này.

Ngay cả khi không tính tới các tài sản là “giấy tờ có giá”, thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản cũng sẽ phải thẩm định giá bất động sản bao gồm bất động sản là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Để thực hiện thẩm định giá bất động sản hiện có, chẳng hạn như trung tâm thương mại, dự án khu đô thị phức hợp, các dự án bất động sản cao cấp, dự án bất động sản công nghiệp và các dự án bất động sản hình thành trong tương lai khác, thẩm định viên cũng phải được trang bị những kiến thức hết sức chuyên sâu về phân tích tài chính không thua gì các thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp.

Như vậy, nếu khái niệm “tài sản” được hiểu theo nghĩa được nêu tại Luật Dân sự thì để đảm bảo chất lượng dịch vụ, thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản vẫn phải có sự chuyên sâu về phân tích tài chính và phải học, thi đầy đủ các môn tài chính không kém gì thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp.

Ở chiều ngược lại, để thẩm định giá doanh nghiệp, thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp cũng sẽ phải học đầy đủ kiến thức chuyên sâu về thẩm định giá bất động sản và động sản như thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản.

Theo Tiêu chuẩn Thẩm định giá Việt Nam số 12, ba cách tiếp cận áp dụng trong thẩm định giá doanh nghiệp bao gồm: cách tiếp cận từ thị trường, cách tiếp cận từ chi phí và cách tiếp cận từ thu nhập. Cách tiếp cận chi phí dựa trên quan điểm cho rằng giá trị doanh nghiệp bằng tổng giá trị các tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo cách tiếp cận chi phí được sử dụng là phương pháp tài sản – đây thường được coi là phương pháp an toàn nhất, là phương pháp quan trọng để xác định giới hạn dưới của giá trị doanh nghiệp.

Tài sản của doanh nghiệp thông thường sẽ bao gồm động sản (máy móc thiết bị, phương tiện, công cụ, hàng hóa,…) và bất động sản (đất đai, nhà xưởng…). Để thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản, thẩm định viên thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp vẫn phải thực hiện ước tính giá trị tài sản là động sản và bất động sản giống như thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản.

Do đó, việc phân loại thẩm định viên về giá theo hai lĩnh vực: thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp như đề xuất tại Dự thảo Luật Giá sửa đổi có thể không giúp đạt được mục tiêu chuyên môn hóa nghiệp vụ của thẩm định viên.

Nguồn sưu tần từ : vneconomy.vn

Tác giả : Dương Thành Đạt

Một số giải pháp, kiến nghị về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong tố tụng dân sự

Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là một trong những biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự do Tòa án thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử để làm căn cứ xác định giá trị tài sản khi giải quyết vụ án. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về hoạt động này còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng.

1. Định giá, thẩm định giá tài sản và quyền yêu cầu của đương sự

Trước đây, khi chưa có Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 06/TATC ngày 25/02/1974 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cùng đề cập đến việc định giá tài sản trong giải quyết các vụ án dân sự nhưng quy định chung chung, không cụ thể. Sau khi BLTTDS sự năm 2004 ra đời đã quy định hoạt động định giá tài sản tại Điều 92, nhưng điều luật này cũng chưa quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các đương sự, thành phần Hội đồng định giá, trình tự, thủ tục định giá tài sản. Ngày 29/3/2011, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004, trong đó sửa đổi Điều 92; đồng thời, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/02/2014 hướng dẫn thi hành Điều 92 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản (Thông tư liên tịch số 02/2014) trong đó đã quy định cụ thể về thành phần, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 02/2014 đã hướng dẫn căn cứ để xác định giá là giá thị trường. Khi BLTTDS năm 2015 ra đời đã quy định về việc định giá và thẩm định giá tài sản tại Điều 104, trong đó đề cập đến giá thị trường nơi có tài sản cần định giá. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 02/2014 và BLTTDS năm 2015 cũng như các văn bản hướng dẫn đều không quy định cụ thể về giá thị trường đối với nơi giao dịch bất động sản không phát sinh trong một thời gian dài hoặc nếu có phát sinh thì có lấy giá do cơ quan thuế xác định để làm căn cứ tính thuế không. Bởi lẽ người dân khi chuyển nhượng thường ghi giá thấp, không đúng với giá thực tế của thị trường nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và không cung cấp chính xác giá cho Hội đồng định giá… Do đó, không phải lúc nào Hội đồng định giá cũng xác định được giá thị trường nên dẫn đến một số vụ việc khi Tòa án giải quyết, các đương sự còn khiếu nại về giá, đa số cho rằng giá của Hội đồng định giá còn thấp hơn giá trị thực tế trên thị trường…

Một số vụ việc tranh chấp tài sản và tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng tài sản có tính chất phức tạp ngày càng tăng, do đó vấn đề đặt ra đối với mỗi Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự là phải kiểm sát chặt chẽ việc thẩm định, định giá tài sản của Tòa án để giải quyết vụ việc chính xác, khách quan, hạn chế đến mức thấp nhất việc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Kiểm sát viên phải tham gia ngay từ đầu và chứng kiến trực tiếp việc thẩm định giá của Hội đồng định giá, nhưng BLTTDS năm 2015 lại không quy định Kiểm sát viên được tham gia ở giai đoạn này,… Để thực hiện, Viện kiểm sát và Tòa án cần ký kết quy chế phối hợp trong lĩnh vực dân sự, trong đó quy định về các trường hợp Kiểm sát viên phối hợp tham gia thẩm định, định giá tài sản cùng Tòa án. Đây là cơ sở giúp Kiểm sát viên kiểm sát hoạt động tố tụng của Tòa án ngay trong quá trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo việc Tòa án định giá, thẩm định tại chỗ đúng với hiện trạng, giá trị tài sản. Từ đó, Kiểm sát viên đánh giá được toàn diện việc giải quyết vụ án dân sự một cách chính xác, khách quan. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát việc thẩm định, định giá tài sản của Tòa án, chúng tôi thấy còn một số khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự dẫn đến khiếu nại kéo dài.

2. Một số khó khăn, vướng mắc

Thứ nhất,về việc căn cứ giá thị trường để định giá đối với tài sản trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp giữa vợ chồng có tài sản chung là quyền sử dụng đất. Theo đó, đối với những vụ án trên, muốn giải quyết triệt để vụ án thì phải định giá tài sản là quyền sử dụng đất, bởi lẽ không phải mọi trường hợp đều đủ điều kiện để chia quyền sử dụng đất (bằng hiện vật) cho tất cả các bên, mà phần lớn chỉ đủ điều kiện chia cho một bên được hưởng quyền sử dụng đất và thanh toán chênh lệch bằng tiền cho bên còn lại, hoặc có trường hợp cần định giá tài sản để làm căn cứ tuyên hợp đồng vô hiệu và buộc bên còn lại phải bồi thường cho bên kia theo giá thị trường nếu có lỗi và tính án phí… Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 BLTTDS năm 2015, trong quá trình giải quyết vụ án có tranh chấp tài sản, đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp cho Tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp tài sản cho thấy, giá do một bên đương sự đưa ra thường không được một hoặc các bên đương sự còn lại chấp nhận vì thường có lợi cho quyền lợi của chính đương sự đó, nên Tòa án phải ra quyết định định giá tài sản và Hội đồng định giá sẽ định giá theo giá thị trường.

Theo điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015 thì giá của tài sản định giá phải là “giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá”. Tuy nhiên, hiện nay công tác thu thập giá thị trường làm căn cứ định giá rất khó thực hiện. Bởi lẽ, các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thường ghi giá trong hợp đồng thấp hơn giá chuyển nhượng thực tế để tránh nộp thuế nên Hội đồng định giá căn cứ vào giá ghi trong hợp đồng chuyển nhượng sẽ không phù hợp với giá thị trường. Nếu Hội đồng định giá căn cứ vào lời trình bày của đương sự và giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường thì không đúng theo quy định của pháp luật. Bởi vì ít khi đương sự cung cấp được chứng cứ liên quan đến giá chuyển nhượng thực tế, Hội đồng định giá thường lấy bảng giá đất quy định hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh (làm căn cứ tính thuế) để làm căn cứ xác định giá trị đất hoặc xác định giá cao hơn so với quy định của Nhà nước…

Ví dụ: Vụ án tranh chấp chia tài sản khi ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn H. Ngoài việc đề nghị ly hôn, anh H, chị T còn đề nghị Tòa án giải quyết tài sản chung là quyền sử dụng đất 86,5m2 (trong đó có 60m2 đất ở và 26,5m2 đất vườn) và nhà ở ba tầng xây dựng năm 2018 (giá trị xây dựng nhà khoảng hơn 01 tỉ đồng). Hai bên đều đề nghị giao nhà, đất cho mình sử dụng và thanh toán chênh lệch tài sản cho bên kia. Nguồn gốc đất xây căn nhà trên do bố mẹ anh H cho; nên nếu các đương sự không thỏa thuận được thì tài sản này sẽ được ưu tiên giao cho anh H. Hội đồng định giá tài sản định giá tài sản năm 2020 kết luận: 01 nhà xây 3 tầng trị giá 524 triệu đồng, quyền sử dụng đất giá trị là 182 triệu đồng, tổng giá trị nhà và đất là 706 triệu đồng.

Sau khi có kết quả thẩm định, định giá, chị T không đồng ý với giá do Hội đồng định giá kết luận, vì cho rằng, Hội đồng định giá định giá quá thấp giá trị tài sản so với thực tế, không đúng với quy định của Điều 104 BLTTDS năm 2015 là giá trị tài sản phải là giá trị trường, đồng thời, chị T yêu cầu định giá lại. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 5 Điều 104 BLTTDS năm 2015 thì “việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự”. Trong vụ án này, đương sự không đưa ra được căn cứ là “không phù hợp với giá thị trường”, vì đương sự không thu thập được hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lưu tại các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và cũng không “mượn” được các hồ sơ này của những người dân chuyển nhượng cho nhau. Vì vậy, không có căn cứ để đề nghị định giá lại. Mặt khác, chị T đưa ra 03 người khác nhau có nhu cầu muốn mua đất và nhà ở trên đất (đang tranh chấp) là 1,5 tỉ đồng và đề nghị Tòa án giao nhà đất cho chị và chị sẽ thanh toán cho anh H 750 triệu đồng (cao hơn tổng giá trị do Hội đồng định giá kết luận). Tuy nhiên, anh H không đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và theo giá trị đã định. Như vậy, trường hợp này có căn cứ chấp nhận đề nghị của chị T hay không? Việc 03 người đề nghị mua theo giá họ thỏa thuận là 1,5 tỉ đồng có được xem xét để làm căn cứ định giá lại không? Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã đề nghị giao nhà, đất cho chị T và chị T thanh toán chênh lệch cho anh H số tiền 750 triệu đồng. Sau đó, các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau giao nhà đất cho anh H và anh H thanh toán chênh lệch cho chị T là 500 triệu đồng.

Thứ hai,đương sự gây khó khăn, cản trở hoạt động định giá của Hội đồng định giá tài sản. Khi Tòa án tiến hành thẩm định, định giá tài sản, bên đang quản lý tài sản không muốn hợp tác và thường có hành vi chống đối, cản trở hoạt động định giá như không cho Hội đồng định giá tiếp cận với tài sản định giá như đóng cổng, cửa, bỏ đi khỏi nơi có tài sản cần thẩm định giá, dẫn tới kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Mặc dù Điều 9 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (Nghị quyết số 04/2022) đã quy định cụ thể đối với trường hợp đương sự hoặc những người khác có hành vi chống đối, gây rối khi Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ; nhưng với trường hợp đương sự đóng cửa, bỏ đi, Tòa án không thể vào xem xét, thẩm định tại chỗ thì có được coi là hành vi “cản trở” không? Về vấn đề này, Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (Pháp lệnh số 02/2022) đã quy định là “hành vi khác cản trở người có thẩm quyền tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ…”.

Thứ ba,về chi phí thẩm định, định giá tài sản. Trong trường hợp phải thẩm định, định giá tài sản thì pháp luật quy định đương sự phải nộp tạm ứng chi phí thẩm định, định giá tài sản. Theo các điều 155, 163 BLTTDS năm 2015 thì tiền tạm ứng chi phí thẩm định, định giá tài sản là số tiền mà Tòa án tạm tính để tiến hành việc thẩm định, định giá tài sản. Tuy nhiên, đến nay, chưa có văn bản nào quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về chi phí thẩm định, định giá tài sản, mức chi cho các thành viên trong Hội đồng, dẫn đến chi phí cho hoạt động thẩm định, định giá ở mỗi vụ án là khác nhau. Trong khi đó, Kiểm sát viên không có căn cứ để kiểm sát được vấn đề này; nhiều trường hợp, Tòa án phải tiến hành lại việc thẩm định tại chỗ và thẩm định giá… Kết quả lần sau có sự khác biệt so với kết quả thẩm định và định giá lần trước. Trường hợp này, việc sai sót trong thẩm định tại chỗ và đo đạc thực tế, thẩm định giá không phải lỗi của đương sự mà thuộc về những người thực hiện; hoặc trường hợp phải định giá lại do vụ án bị hủy, sửa cũng không phải do lỗi của đương sự… Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 lại không có quy định về nghĩa vụ phải chịu chi phí thẩm định tại chỗ, thẩm định giá trong trường hợp phải thực hiện thẩm định tại chỗ, thẩm định giá lại do có sai sót hoặc bị hủy, sửa…

Thứ tư,về thời gian định giá lại. Theo quy định tại khoản 7 Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 05 thì quy trình thẩm định giá ban hành kèm theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ Tài chính quy định về xác định thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá thì: “Thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá được xác định trên cơ sở đặc điểm pháp lý, kinh tế – kỹ thuật của tài sản thẩm định giá; biến động về pháp lý, thị trường liên quan đến tài sản thẩm định giá và mục đích thẩm định giá nhưng tối đa không quá 06 (sáu) tháng kể từ thời điểm chứng thư thẩm định giá có hiệu lực”. Như vậy, một chứng thư thẩm định có giá trị pháp lý không quá 06 tháng. Khi hết thời hạn trên cần tiến hành thẩm định giá lại từ đầu để xác định chính xác về giá trị của tài sản. Như vậy, đối với những vụ việc sau khi định giá tài sản và có kết luận, Tòa án phải tạm đình chỉ vì nhiều lý do, đến khi xét xử đã hơn 06 tháng thì có phải thẩm định giá và định giá lại tài sản không (mặc dù quy định này không áp dụng đối với việc định giá tài sản trong tố tụng dân sự nhưng nó có giá trị tham khảo để áp dụng)? Nếu định giá lại thì ai là người chịu trách nhiệm khi phát sinh chi phí? Đây là những vấn đề vướng mắc cần có hướng dẫn trong thời gian tới.

3. Một số giải pháp, kiến nghị

Một là,để khắc phục tình trạng không biết xác định giá thị trường như thế nào hoặc Hội đồng định giá chỉ căn cứ vào khung giá do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, không định giá sát với giá thị trường thì trước khi tiến hành định giá, Hội đồng định giá cần tham khảo mức giá tại địa phương trong phạm vi nhất định; Nhà nước đấu giá diện tích đất tương tự như thế nào?… hoặc căn cứ vào giá trị tài sản do các bên cung cấp để chia ra giá trị bình quân; trước khi định giá cần giải thích rõ cho đương sự biết hậu quả của việc định giá tài sản và giao tài sản để các đương sự đưa ra giá cho phù hợp. Hội đồng định giá chỉ định giá theo khung giá khi thu thập được đầy đủ các chứng cứ chứng minh khung giá đó là sát với giá thị trường và các tài liệu thu thập được để chứng minh này phải được kèm theo biên bản định giá tài sản, kết luận định giá tài sản gửi cho Tòa án và các bên đương sự.

Hai là,để khắc phục tình trạng đương sự chống đối hoạt động thẩm định, định giá tài sản, thì cần có biện pháp phối hợp giữa Hội đồng định giá, Tòa án, chính quyền địa phương, Công an xã. Nếu có người có hành vi cản trở, Hội đồng định giá cần đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc người có hành vi thực hiện hoặc không thực hiện hành vi nào đó tương ứng với quy định tại Điều 127 BLTTDS năm 2015. Điểm c khoản 2 Điều 20 Pháp lệnh số 02/2022 quy định phạt tiền từ 500.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi “không thi hành hoặc cản trở việc thi hành quyết định định giá, thẩm định giá tài sản, xem xét, thẩm định tại chỗ”. Đây là một chế tài xử lý đầu tiên cụ thể hóa trách nhiệm của đương sự khi không chấp hành quyết định của Tòa án.

Ba là,cần hoàn thiện quy định của pháp luật trong việc thẩm định, định giá tài sản cụ thể về mức chi đối với thành viên Hội đồng, có mức thu chi đối với những vụ án thẩm định, định giá cụ thể. Đối với các trường hợp phải định giá lại hoặc thẩm định tại chỗ lại không phải do lỗi của đương sự thì cần quy định cụ thể ai là người phải chịu chi phí thẩm định, định giá.

Bốn là,cần quy định thời gian áp dụng đối với kết luận định giá theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ Tài chính ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 05, 06 và 07.

Năm là,để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ việc chống thất thu thuế trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Phòng tài chính tại các địa phương, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, phòng tài nguyên và môi trường cần có sự liên thông cập nhật giá đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được ngành Thuế xác định để thu thuế đối với các diện tích đất tương ứng từng vị trí trên địa bàn để Hội đồng định giá tham khảo trước khi đưa ra một mức giá chính xác, nhằm đảm bảo mọi hoạt động thẩm định, định giá thời gian tới được kiểm sát chặt chẽ để việc giải quyết vụ việc chính xác, khách quan, hạn chế đến mức thấp nhất việc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Trần Xuân Hùng – Nguyễn Thị Bích Ngọc

Quản chặt không ngăn nổi “méo mó” trong thẩm định giá, Bộ Tài chính sẽ mạnh tay “siết” quy định

Tính đến nay đã gần 10 năm thực thi Luật Giá và hệ thống pháp luật về thẩm định giá. Từ những sai phạm gần đây liên quan đến hoạt động thẩm định giá và chất lượng thẩm định viên cho thấy, nếu không chấn chỉnh, thẩm định giá sẽ trở thành “ung nhọt”, làm méo mó về giá trong các giao dịch kinh tế và tiếp tay cho sai phạm, tham nhũng, gây thất thoát ngân sách, tài sản nhà nước…

Hàng loạt nhiều vụ án nghiêm trọng do thẩm định viên “tiếp tay” sai phạm vừa bị phanh phui thời gian gần đây.
Hàng loạt nhiều vụ án nghiêm trọng do thẩm định viên “tiếp tay” sai phạm vừa bị phanh phui thời gian gần đây.

Năm 2012, Luật Giá được ban hành. Cơ quan quản lý theo sát “dấu chân” hành nghề của các doanh nghiệp và thẩm định viên để ban hành, sửa đổi hàng loạt quy định, để bịt chặt “kẽ hở” về pháp luật, tránh những sai phạm trong hoạt động thẩm định giá. Nhờ đó, tạo tiền đề cho sự phát triển của các doanh nghiệp thẩm định giá và các thẩm định viên đăng ký hành nghề những năm qua.

Thẩm định giá hiện trở thành một dịch vụ tư vấn tài chính không thể thiếu trong việc xác định giá trị tài sản trong các giao dịch trên thị trường. Từ nhu cầu thẩm định giá của các tổ chức, cá nhân đến việc các cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập… khi sử dụng vốn nhà nước để mua sắm trang thiết bị, máy móc duy trì hoạt động hay định giá tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hóa…, đều cần thẩm định giá. Có thể thấy, thẩm định giá đã và đang ở thời kỳ hoàng kim.

“RÚNG ĐỘNG” NHIỀU VỤ ÁN THẨM ĐỊNH VIÊN “TIẾP TAY” SAI PHẠM

Thế nhưng, bên cạnh những giá trị mang lại cho xã hội thì thẩm định giá cũng bộc lộ những mặt trái, tiếp tay cho tiêu cực tham nhũng mà biểu hiện rõ nhất thông qua các hoạt động đấu thầu mua sắm thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế, định giá đất trong xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa…

Thông qua các vụ việc bị phanh phui đã lộ ra sự “tiếp tay” của hàng loạt thẩm định viên về giá, vi phạm nghiêm trọng về đạo đức nghề nghiệp gây bức xúc trong dư luận xã hội, gia tăng doanh nghiệp thẩm định giá bị cơ quan quản lý “tuýt còi” và vướng vòng lao lý.

Gần đây nhất, Công ty cổ phần định giá và đầu tư Việt có trụ sở tại TP. Hà Nội là đơn vị thẩm định giá và cung cấp Chứng thư thẩm định giá dự toán tại 3 gói thầu mua sắm của Bệnh viện sản nhi Bắc Ninh, gồm gói thầu số 02 mua máy thở và máy đo khí máu; gói thầu số 03 mua máy lọc máu liên tục; gói thầu số 04 mua máy siêu âm Doppler bằng 3 đầu dò.

Tuy nhiên, công ty thực hiện thẩm định giá thực hiện một số nội dung không đầy đủ theo quy định của Tiêu chuẩn thẩm định giá số 05 về quy trình thẩm định giá, được ban hành kèm theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 6/3/2015 của Bộ Tài chính.

Với những hành vi vi phạm này, Công ty cổ phần định giá và đầu tư Việt bị UBND tỉnh Bắc Ninh xử phạt 70 triệu đồng. Ngoài ra, UBND tỉnh Bắc Ninh kiến nghị Bộ Tài chính đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp này.

Hay như đại án Công ty Việt Á, vụ án điển hình gây chấn động với 95 bị can bị khởi tố gắn với nhiều CDC các tỉnh, thành. Cùng đó, hàng loạt doanh nghiệp thẩm định giá “tiếp tay” nâng khống giá kit test gây thất thoát ngân sách nhà nước như Công ty TNHH thẩm định giá Tây Nam, Công ty cổ phần thẩm định giá BTC VALUE – chi nhánh Đà Nẵng…

Hoặc, một vụ án cổ phần hóa Tổng công ty cổ phần sản xuất và xuất nhập khẩu Bình Dương (mã chứng khoán: PRT) xảy ra tại tỉnh Bình Dương hiện đang được Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử, Công ty cổ phần tư vấn và thẩm định giá Đông Nam “tiếp tay” để loại trừ 145 ha “đất vàng” ra khỏi ra giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa khiến Nhà nước thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng.

LUẬT PHÁP VÀ QUẢN LÝ CHƯA THEO KỊP THỰC TẾ

Thống kê của Bộ Tài chính cho thấy sức “nóng” về tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên trong những năm gần đây.

Nếu như năm 2009, chỉ có tổng số 44 doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động với 184 thẩm định viên hành nghề thì đến 2012, đã có 98 doanh nghiệp, tăng 123% so với năm 2009, với số lượng thẩm định viên hành nghề là 535 người. Cuối năm 2020, có tới 409 doanh nghiệp thẩm định giá được cấp giấy chứng nhận, gấp 9,3 lần so với năm 2009, với 1.723 thẩm định viên hành nghề, gấp hơn 11,6 lần so với năm 2009.

Tuy nhiên, đến đầu năm 2022, chỉ có 279 doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động và số thẩm định viên về giá được phép hành nghề cũng sụt giảm tương ứng chỉ còn 1.460 do nhiều quy định mang tính siết chặt tại Nghị định số 12/2021/NĐ-CP ngày 24/2/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 6/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá.

Quản chặt không ngăn nổi "méo mó" trong thẩm định giá, Bộ Tài chính sẽ mạnh tay “siết” quy định - Ảnh 1

Theo đại diện Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính, công tác quản lý nhà nước về thẩm định giá vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục.

Theo đó, do nhiều quy định pháp luật chưa theo kịp sự phát triển “nóng” của loại hình doanh nghiệp này.

Vì vậy, xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp thẩm định giá thường xuyên thay đổi người đại diện theo pháp luật. Một số doanh nghiệp thẩm định giá chậm hoặc không thực hiện báo cáo đầy đủ.

Cùng đó, thẩm định viên về giá không làm cố định tại doanh nghiệp mà “chân trong, chân ngoài” vừa gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, vừa làm giảm hiệu quả hoạt động, trách nhiệm nghề nghiệp trong doanh nghiệp. Tình trạng cho thuê và mượn thẻ thẩm định viên về giá có xu hướng tăng.

Nhìn nhận về sai phạm của hoạt động thẩm định giá thời gian qua, có ý kiến cho rằng các thẩm định viên về giá hiện nay chưa được chuyên môn hóa theo lĩnh vực tài sản thẩm định giá như: bất động sản; máy móc, thiết bị; giá các tài sản tài chính gồm doanh nghiệp, tài sản vô hình, thương hiệu… nên có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng dịch vụ thẩm định giá.

Do thiếu trình độ chuyên môn sâu theo từng nhóm tài sản thẩm định giá nên thẩm định viên khi hành nghề dễ phát sinh vướng mắc, sai sót, chất lượng dịch vụ không cao.

Ở một góc nhìn khác, theo quy định của Luật Giá, kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc có quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật và các bên liên quan xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá đối với tài sản.

Kết quả thẩm định giá chỉ được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá.

Tuy nhiên, nhiều quy định tại pháp luật chuyên ngành gần như sử dụng ngay kết quả thẩm định giá làm căn cứ duy nhất để định giá, kéo theo đó là trách nhiệm rất nặng đặt lên vai các doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá.

ĐƯA THẨM ĐỊNH GIÁ VÀO KHUÔN KHỔ

Trước tình trạng xuống dốc về đạo đức thẩm định viên, số lượng vi phạm tăng đột biến cơ quan chức năng dùng nhiều biện pháp chấn chỉnh, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải rà soát lại toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp từ quản trị doanh nghiệp, quản lý thẩm định viên đến kiểm soát chất lượng hoạt động thẩm định giá nội bộ của doanh nghiệp. Đặc biệt là thúc đẩy doanh nghiệp chấp hành tốt hơn pháp luật về thẩm định giá, nhất là các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.

Đáng chú ý, cơ quan quản lý phải bám sát từng động tĩnh trong hoạt động của gần 300 doanh nghiệp và công bố công khai từng thông tin điều chỉnh nhỏ nhất của gần 1.500 thẩm định về giá được phép hành nghề trên toàn quốc như điều chỉnh chức vụ, điều chuyển nơi công tác, điều chỉnh chức năng đăng ký hành nghề…

Một đại diện Cục Quản lý giá chia sẻ với phóng viên VnEconomy rằng công tác quản lý rất chặt chẽ nhưng sai phạm vẫn lộ lọt ngày càng nhiều.

Mặc dù quy định về pháp luật khá rõ ràng, phương pháp thẩm định giá tài sản có những tiêu chí cụ thể, cơ quan quản lý quản lý chặt chẽ nhưng trước những sai phạm vẫn “nở rộ”, các chuyên gia cho rằng, cần phải rà soát lại để hoàn thiện quản lý nhà nước về thẩm định giá theo hướng sâu sát hơn.

Ngoài ra, từ năm 2013 đến nay, Bộ Tài chính liên tục tổ chức các đợt thanh, kiểm tra doanh nghiệp thẩm định giá.

Cụ thể, năm 2013 kiểm tra 15 doanh nghiệp và 3 chi nhánh; năm 2015 kiểm tra 39 doanh nghiệp; năm 2016 kiểm tra 40 doanh nghiệp và thanh tra 2 doanh nghiệp; năm 2020 kiểm tra 58 doanh nghiệp. Chưa kể, Bộ Tài chính cũng chủ động tiến hành kiểm tra đột xuất hoặc đưa vào danh sách kiểm tra trong năm kế tiếp đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm.

Song song, công tác giám sát, kiểm tra hàng năm, thanh tra phát hiện và xử phạt hành chính với các doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá và được công khai. Cụ thể, năm 2014 xử phạt 5 doanh nghiệp; năm 2015 xử phạt 5 doanh nghiệp; năm 2019 xử phạt 15 doanh nghiệp…

Thế nhưng, số lượng doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thẩm định giá cũng tăng “nóng” gần đây, đặc biệt từ sau khi Nghị định số 12/2021/NĐ-CP có hiệu lực.

Mặc dù quy định về pháp luật khá rõ ràng, phương pháp thẩm định giá tài sản có những tiêu chí cụ thể, cơ quan quản lý quản lý chặt chẽ nhưng trước những sai phạm vẫn “nở rộ”, các chuyên gia cho rằng, cần phải rà soát lại để hoàn thiện quản lý nhà nước về thẩm định giá theo hướng sâu sát hơn đối với điều kiện hoạt động và hành nghề của các doanh nghiệp và các thẩm định viên về giá; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và đánh giá chất lượng hoạt động doanh nghiệp; hoàn thiện bộ Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam…

Tiếp tục rà soát những “lỗ hổng” về chính sách và đưa hoạt động thẩm định giá phát triển đúng định hướng, Bộ Tài chính đang tiếp tục lắng nghe góp ý của những doanh nghiệp, hiệp hội, bộ ngành cùng các địa phương, để hoàn thiện Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) và sớm trình Chính phủ thời gian tới.

Những điểm mới quan trọng trong Nghị quyết 30/NQ-CP về mua sắm y tế

– Nghị quyết 30/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện các giải pháp bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế có nhiều điểm mới, tháo gỡ cơ bản những vướng mắc của các cơ sở y tế hiện nay.

Những điểm mới quan trọng trong Nghị quyết 30/NQ-CP về mua sắm y tế - Ảnh 1.

Sửa đổi quy định về thanh toán bảo hiểm y tế

Theo ông Nguyễn Tường Sơn, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ Y tế), thành viên soạn thảo Nghị quyết 30/NQ-CP, Nghị quyết đã sửa đổi Khoản 4 của Nghị quyết 144/NQ-CP ngày 5/11/2022 của Chính phủ, cho phép tiếp tục thanh toán chi phí phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT đối với các dịch vụ kỹ thuật thực hiện bằng máy do nhà thầu cung cấp sau khi trúng thầu vật tư, hóa chất theo kết quả lựa chọn nhà thầu được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật Đấu thầu.

Trước đó, tại Nghị quyết 144, có quy định cho phép tiếp tục thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT của các dịch vụ kỹ thuật thực hiện bằng máy do nhà thầu cung cấp sau khi trúng thầu vật tư, hóa chất theo kết quả lựa chọn nhà thầu được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước ngày 5/11/2022.

Tuy nhiên, thời hạn thực hiện theo thời gian thực hiện hợp đồng đã ký trước ngày 5/11/2022 hoặc không quá 12 tháng, tức là không quá ngày 5/11/2023.

Tại Nghị quyết 30/NQ-CP, có quy định với các hợp đồng được ký trước ngày 5/11/2022 sẽ tiếp tục thực hiện theo thời hạn của hợp đồng.

Còn với các hợp đồng được ký từ ngày 5/11/2022 được tiếp tục thực hiện đến khi có văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này (không còn thời hạn đến 5/11/2023), bao gồm cả các hợp đồng được ký theo hình thức mua sắm trực tiếp.

“Quy định này nhằm lấp khoảng thời gian trống về mặt pháp lý trong thực hiện vấn đề này từ sau ngày 5/11/2023 đến khi Luật Khám chữa bệnh sửa đổi có hiệu lực và có các văn bản hướng dẫn theo quy định”, ông Nguyễn Tường Sơn cho biết.

Cho phép thay đổi xác định giá các gói thầu mua sắm y tế

Điểm mới thứ 2của Nghị quyết 30/NQ-CP là cho phép thay đổi xác định giá các gói thầu trong mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế.

Hiện nay, có những gói thầu trang thiết bị, vật tư y tế không thể tìm được 2-3 báo giá vì nhà phân phối độc quyền hoặc không có thẩm định giá.

Nghị quyết 30/NQ-CP đã quy định, chủ đầu tư gửi thông báo mời chào giá với yêu cầu kỹ thuật lên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Y tế hoặc cổng dịch vụ công trực tuyến về quản lý trang thiết bị y tế (//dmec.moh.gov.vn) hoặc trang thông tin điện tử của đơn vị hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về đấu thầu trong thời gian tối thiểu 10 ngày.

Hết thời gian thông báo mời chào giá, chủ đầu tư căn cứ số báo giá nhận được để làm cơ sở xây dựng giá gói thầu.

Trường hợp chỉ có 1 hoặc 2 nhà phân phối hoặc doanh nghiệp cung cấp báo giá thì được sử dụng các báo giá đã nhận để làm cơ sở xây dựng giá gói thầu.

Chủ đầu tư cũng được phép lấy báo giá trực tiếp từ nhà phân phối trong trường hợp chỉ có một nhà phân phối hoặc để bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà phân phối khác. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng các cơ sở y tế rơi vào chỉ định thầu.

Hội đồng khoa học quyết định lựa chọn sản phẩm chất lượng

Điểm mới thứ 3,với những trang thiết bị, vật tư y tế cùng chủng loại nhưng có nhiều nhà phân phối, Nghị quyết 30/NQ-CP cho phép chủ đầu tư xem xét, quyết định việc giao Hội đồng Khoa học của đơn vị thực hiện việc xây dựng tính năng, cấu hình kỹ thuật theo yêu cầu chuyên môn của đơn vị. Trên cơ sở tính năng, cấu hình kỹ thuật do Hội đồng Khoa học xây dựng, đơn vị tổ chức lấy báo giá.

Trước đây, những sản phẩm này đấu thầu theo giá nên các cơ sở y tế có thể mua được sản phẩm giá rẻ nhưng chất lượng kém.

Còn Nghị quyết 30/NQ-CP hướng tới việc trước tiên phải lựa chọn được sản phẩm đạt yêu cầu về chuyên môn, sau đó mới xây dựng báo giá để giảm giá gói thầu. Đồng thời cũng sẽ loại bỏ trừ được những sản phẩm không đảm bảo chất lượng, ông Nguyễn Tường Sơn chia sẻ.

Gỡ vướng về máy liên doanh, liên kết; mua sắm vật tư theo máy

Điểm mới thứ 4,Nghị quyết 30/NQ-CP cũng cho phép các cơ sở y tế được sử dụng các trang thiết bị y tế đã được cá nhân, tổ chức trong nước, nước ngoài hiến, biếu, tặng cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ (bao gồm các trang thiết bị y tế liên doanh, liên kết đã hết thời hạn hợp đồng) nhưng chưa hoàn thành thủ tục xác lập sở hữu toàn dân để khám bệnh, chữa bệnh. Các dịch vụ kỹ thuật thực hiện bằng trang thiết bị y tế này được quỹ BHYT thanh toán.

Một điểm mới khác của Nghị quyết 30/NQ-CPlà sau khi trúng thầu hóa chất theo máy đóng (hóa chất chỉ sử dụng được với máy đó, không sử dụng được với máy khác) thì nhà sản xuất sẽ đưa máy vào cơ sở khám chữa bệnh thực hiện theo hóa chất đó.

Nếu cơ sở khám chữa bệnh đã có máy mà trúng thầu hóa chất của máy đó thì được tiếp tục sử dụng, còn nếu không trúng thầu thì đưa máy về.

Trong nhiều năm nay, tại các cơ sở khám chữa bệnh, nhất là các bệnh viện lớn trực thuộc Bộ Y tế, tỉ lệ sử dụng các máy liên doanh, liên kết, máy xã hội hóa tại bệnh viện đó chiếm rất cao (khoảng 70-80%, thậm chí có bệnh viện sử dụng các loại máy theo hình thức này đến 90%)./.

Những điểm mới quan trọng trong Nghị quyết 30/NQ-CP về mua sắm y tế - Ảnh 2.

Những điểm mới quan trọng của Nghị quyết số 30/NQ-CP về bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế. Đồ họa Báo Sức khỏe và Đời sống.