Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 4 2023

Những điểm mới về định giá tài sản trong tố tụng hình sự

Ngày 07/3/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 30/2018/NĐ-CP quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thay thế cho Nghị định số 26. Đây là một trong những văn bản hướng dẫn, triển khai thi hành BLTTHS năm 2015.

Ảnh minh họa

So với Nghị định 26, Nghị định 30 đã quy định chi tiết hơn về định giá tài sản trong TTHS, quy định cụ thể đối tượng áp dụng của Nghị định này là: “Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có yêu cầu thành lập Hội đồng định giá; cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng định giá; cơ quan, tổ chức cử người và cá nhân được cử tham gia Hội đồng định giá; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.”(Điều 2).

Mở rộng nguyên tắc định giá tài sản

Điều 4 Nghị định 30 đã quy định theo hướng mở rộng hơn đối với nguyên tắc định giá tài sản:Hội đồng định giá tài sản có thể định giá tài sản tương tự với tài sản cần định giá.(Tài sản tương tự là tài sản cùng loại, tương đồng với tài sản cần định giá về một số đặc trưng cơ bản như mục đích sử dụng, công dụng, đặc điểm pháp lý và một số đặc điểm về kinh tế – kỹ thuật chủ yếu, bao gồm nguyên lý cấu tạo, tính năng kỹ thuật và tính năng sử dụng – Điều 3.3). Quy định này đã tháo gỡ vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án trong trường hợp không thu được tài sản hoặc tài sản thu giữ đã bị thay đổi so với ban đầu. Bên cạnh đó, giá trị tài sản định giá cũng được thay đổi từ “thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm” thành “tại thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá”.

Ảnh minh họa

Phương pháp định giá tài sản

Về căn cứ định giá, Nghị định 30 chia tài sản định giá thành 02 loại làtài sản không phải là hàng cấm và tài sản là hàng cấmvà quy định cụ thể căn cứ định giá đối với từng loại. Trường hợp thu thập nguồn thông tin về mức giá tài sản tại thời điểm khác hoặc ở địa phương khác thì mức giá đó cần được điều chỉnh phù hợp về thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá.

Nghị định 30 cũng quy định cụ thể hơn về phương pháp định giá tài sản đối với một số trường hợp như:tài sản chưa qua sử dụng hoặc đã qua sử dụng, tài sản đã bị hủy hoại, hư hỏng một phần, thất lạc, tài sản là hàng giả hoặc không được mua bán phổ biến trên thị trường.(Điều 17)

Các quy định trên đã giải quyết được vướng mắc thực tế khi Cơ quan tố tụng yêu cầu xác định giá trị tài sản là loại hàng cấm, hàng hóa không phổ biến… Tuy nhiên, Nghị định cũng quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá có trách nhiệm“tổ chức cho Hội đồng định giá khảo sát trực tiếp tài sản hoặc mẫu tài sản cần định giá”(Điều 16.1)

Kết luận định giá tài sản

So với quy định tại Nghị định 26, phiên họp của Hội đồng định giá chỉ thực hiện khi có đầy đủ các thành viên thì tại Nghị định 30 quy định:trừ trường hợp Hội đồng định giá có 03 thành viên phải có đầy đủ 03 thành viên, thì Phiên họp định giá tài sản có thể tiến hành khi có mặt ít nhất 2/3 số lượng thành viên tham dự.Những thành viên vắng mặt phải có văn bản gửi tới Chủ tịch Hội đồng nêu rõ lý do vắng mặt và có ý kiến độc lập của mình về giá của tài sản cần định giá. (Điều 18)

Đối với trường hợp định giá tài sản là hàng cấm, biên bản họp định giá tài sản ngoài những nội dung chính, biên bản họp còn phải nêu rõ những hạn chế về việc áp dụng các căn cứ định giá tài sản đối với hàng cấm; về quá trình thực hiện khảo sát giá; thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá là hàng cấm; về phương pháp định giá tài sản và các hạn chế khác (nếu có) khi định giá tài sản là hàng cấm. (Điều 19)

Hồ sơ định giá tài sản

Nghị định 30 quy định chặt chẽ hơn về hồ sơ định giá tài sản phải bao gồm cả “Văn bản yêu cầu định giá tài sản” và “Quyết định thành lập Hội đồng định giá”; bên cạnh đó, Nghị định 30 đã bổ sung thêm danh mục “Tài liệu do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp”. (Điều 23).

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền, phạm vi định giá tài sản trong TTHS đối với những vụ án được phát hiện, xử lý trên địa bàn khác nhau. Ví dụ: Vụ án “Cướp tài sản” được cơ quan tố tụng huyện X phát hiện, khởi tố, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh thì việc định giá tài sản trong vụ án do Hội đồng định giá cấp nào thực hiện? Vì vậy cần có quy định cụ thể Hội đồng Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp nào trưng cầu định giá thì Hội đồng định giá cấp đó thực hiện để đảm bảo việc áp dụng được thống nhất, giải quyết vụ án được kịp thời.

Thực tế, việc xác định giá trị tài sản trong một số vụ án rất phức tạp, phải thuê các tổ chức giám định tình trạng kinh tế – kỹ thuật, tỷ lệ chất lượng của tài sản, doanh nghiệp thẩm định để thực hiện, chi phí để giám định tài sản cao. Để đảm bảo việc kết quả thẩm định giá của các tổ chức này đưa ra là khách quan, tránh lãng phí cần có quy định cụ thể về điều kiện thuê tổ chức, doanh nghiệp giám định tài sản.

Hiện nay, trong các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, chỉ Cơ quan điều tra được cấp kinh phí, chi phí định giá tài sản vì vậy khó khăn khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án trưng cầu định giá tài sản trong TTHS.

Trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự

Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự.
Theo đó, Hội đồng định giá (HĐĐG) được thành lập theo hai loại là HĐĐG theo vụ việc và HĐĐG thường xuyên như sau:

HĐĐG theo vụ việc:

– HĐĐG theo vụ việc được thành lập ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện); ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở trung ương.

– HĐĐG theo vụ việc cấp huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá tài sản khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

– HĐĐG theo vụ việc cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá các loại tài sản khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc thực hiện định giá lại trong các trường hợp theo quy định tại Điều 21 Nghị định này.

– HĐĐG theo vụ việc ở trung ương do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là bộ) thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá theo quy định của pháp luật quyết định thành lập để thực hiện định giá lại trong các trường hợp theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 Nghị định này.

Trường hợp pháp luật không quy định cụ thể cơ quan thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá, Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định thành lập HĐĐG tài sản.

– Thành phần, hoạt động, quyền và nghĩa vụ của HĐĐG theo vụ việc, quyền và nghĩa vụ của thành viên và Chủ tịch HĐĐG theo vụ việc thực hiện theo các quy định tại Nghị định này.

HĐĐG thường xuyên:

– Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh quyết định thành lập HĐĐG thường xuyên để định giá tài sản.

– HĐĐG thường xuyên cấp huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá tài sản khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

– HĐĐG thường xuyên cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và thực hiện định giá lại trong các trường hợp theo quy định tại Điều 21 Nghị định này.

– Quyết định thành lập HĐĐG thường xuyên được gửi đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để cơ quan này gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định này.

– Thành phần, hoạt động, quyền và nghĩa vụ của HĐĐG thường xuyên, quyền và nghĩa vụ của thành viên và Chủ tịch HĐĐG thường xuyên thực hiện theo các quy định tại Nghị định này.

– Đối với cùng một tài sản được cơ quan có thẩm quyền trưng cầu định giá, trường hợp HĐĐG thường xuyên đã được thành lập để tiến hành định giá đối với tài sản này thì không thành lập HĐĐG theo vụ việc theo quy định tại Điều 6 Nghị định này.

Ảnh minh họa

Bên cạnh quy định cụ thể việc tiếp nhận yêu cầu định giá tài sản; căn cứ định giá tài sản,… Nghị định quy định chi tiết về phương pháp định giá tài sản như sau:

– Căn cứ vào loại tài sản; thông tin và đặc điểm của tài sản; tình hình khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá; HĐĐG thực hiện định giá tài sản theo tiêu chuẩn về thẩm định giá, phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ và các tiêu chuẩn, phương pháp định giá quy định tại pháp luật chuyên ngành liên quan đến tài sản cần định giá.

– Đối với một số trường hợp cụ thể, việc định giá tài sản thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này, đồng thời tiến hành như sau:

+ Tài sản chưa qua sử dụng: HĐĐG xác định giá của tài sản theo giá của tài sản giống hệt còn mới hoặc tài sản tương tự còn mới (nếu không có tài sản giống hệt);

+ Tài sản đã qua sử dụng: HĐĐG xác định giá của tài sản trên cơ sở xác định giá trị thực tế của tài sản;

+ Tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ nhưng vẫn có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu xác định giá trị thiệt hại của tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ, HĐĐG xác định giá trên cơ sở chi phí khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ;

+ Tài sản bị mất, thất lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ và không có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: HĐĐG xác định giá của tài sản theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá;

+ Tài sản là hàng giả: HĐĐG xác định giá tài sản theo giá của hàng thật hoặc giá của tài sản tương tự theo quy định của Bộ luật Hình sự;

+ Tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường; tài sản là kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị văn hóa, tôn giáo, khảo cổ, kiến trúc, lịch sử: HĐĐG xác định giá tài sản dựa trên kết quả giám định, ý kiến đánh giá của cơ quan có thẩm quyền và chuyên gia về lĩnh vực này hoặc giá trị ghi trong hồ sơ, tài liệu của tài sản.

Nghị định cũng quy định chi tiết việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt:

Theo đó, trường hợp đặc biệt, Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao quyết định việc định giá lại tài sản khi đã có kết luận định giá lại lần hai của Hội đồng định giá. Việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt do Hội đồng định giá theo vụ việc ở trung ương quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị định này thực hiện.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2018 và thay thế Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Những bất cập về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong BLTTDS năm 2015

Định giá tài sản là cơ sở để Tòa án xác định giá trị tài sản tranh chấp cũng như khi chia tài sản theo phần cho các đương sự trong vụ án không thể phân chia bằng hiện vật và là cơ sở để xác định nghĩa vụ nộp án phí đối với Nhà nước.

Bài viết phân tích những quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản để từ đó có cái nhìn toàn diện về công tác này trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

1. Một số điểm mới về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Thứ nhất,một trong những nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự mà BLTTDS đã ghi nhận tại Điều 5, đã được nhà làm luật bổ sung vào khoản 1 Điều 104 BLTTDS như sau: “Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp”. Theo đó, khi có tranh chấp về giá trị tài sản, nếu các bên thỏa thuận được về giá trị khối tài sản đang tranh chấp hoặc cung cấp được giá tài sản, thì Toà án tôn trọng sự quyết định của các đương sự trong việc định giá tài sản.

Thứ hai,Điều 104 bổ sung quy định Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi “Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản” (điểm b khoản 3). Việc bổ sung này đã tạo điều kiện chủ động hơn cho Tòa án trong việc định giá tài sản, nếu đương sự không thỏa thuận được giá, không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau thì Tòa án sẽ tiến hành định giá tài sản mà không cần có yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.

Thứ ba,trong trường hợp các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc với người thứ ba (điểm c khoản 3). Trước đây, theo quy định trong BLTTDS năm 2004, nếu các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp, mà không quy định giá để Tòa án làm căn cứ để xác định giá là giá nào? Giá thị trường hay giá do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh niêm yết. Trên thực tế trước đây, Toà án sẽ căn cứ vào biểu giá nhà đất, giá các loại tài sản do UBND tỉnh ban hành hàng năm và lấy đó làm căn cứ để cho rằng, giá các bên thoả thuận là thấp, nếu giá các bên thoả thuận thấp hơn biểu giá mà UBND ban hành. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn đã phát sinh nhiều bất cập, bởi lẽ, có những trường hợp việc định giá tài sản không chỉ là một căn nhà, hay một lô đất, mà nhiều khi khối tài sản tranh chấp rất nhiều loại, ví dụ: Nhà, đất, tài sản trong nhà như ti vi, tủ lạnh, xe máy, xe ô tô, máy nổ, các loại máy phục vụ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, các loại cây trồng trên đất… Toà án không phải là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực này, nên cho dù có biểu giá nhà đất hoặc biểu giá các loại tài sản khác do UBND ban hành hàng năm, thì Toà án (mà cụ thể là Thẩm phán, Hội đồng xét xử) cũng lúng túng khi thực hiện. Nếu các đương sự thuê dịch vụ thẩm định giá tài sản, thì Toà án lại càng khó để kết luận là giá tài sản mà các đương sự thoả thuận với tổ chức thẩm định giá là giá thấp, trừ khi một trong các bên đương sự vì có mâu thuẫn nên báo lại cho Toà án biết.

Ảnh minh họa

Thứ tư,nếu có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá cũng là căn cứ để Tòa án tiến hành định giá tài sản (điểm c khoản 3). Trước đây, chỉ quy định tổ chức thẩm định giá đưa ra giá thấp, nhưng như trên đã phân tích, việc biết được kết quả thẩm định giá là thấp hay không là rất khó cho Tòa án, do vậy, khi có căn cứ tổ chức thẩm định giá vi phạm pháp luật về thẩm định giá tài sản thì Tòa án sẽ ra quyết định định giá tài sản mà không cần có yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.

Thứ năm, Điều luật bổ sung cụm từ “Tòa án có quyền yêu cầu cơ quan quản lý có thẩm quyền trực tiếp chỉ đạo cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn thực hiện yêu cầu của Tòa án” (điểm b khoản 4). Việc bổ sung nhằm làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý trực tiếp của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn khác (thông thường là UBND hoặc các cơ quan quản lý cấp trên như Sở tài chính, Sở tài nguyên và môi trường, Sở xây dựng…). Vấn đề chế tài đối với “cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ. Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia đầy đủ vào việc định giá. Trường hợp cơ quan tài chính, các cơ quan chuyên môn không cử người tham gia Hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng định giá không tham gia mà không có lý do chính đáng, thì tùy theo mức độ vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, nếu chỉ xử lý cán bộ không thực hiện nhiệm vụ quy định thì vấn đề định giá của Tòa án lại bị “ngưng lại” mà không có biện pháp thay thế. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định trong trường hợp người được cử tham gia Hội đồng định giá không tham gia thì Tòa án yêu cầu lãnh đạo cơ quan đã cử người tham gia Hội đồng định giá xem xét trách nhiệm, cử người khác thay thế và thông báo cho Tòa án biết để tiếp tục tiến hành định giá. Quy định này là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo sự phối hợp và tôn trọng Toà án trong việc giải quyết nhanh vụ án, tránh trường hợp các cơ quan này từ chối cử người tham gia Hội đồng định giá tài sản, cũng như cá nhân người được cử làm thành viên Hội đồng định giá tài sản nhưng không tham gia, gây khó khăn, tốn kém tiền bạc cũng như thời gian của các đương sự và Toà án mà trước đây không có bất cứ một chế tài nào đối với cơ quan, cá nhân đó. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên đối với cấp dưới, bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng như đặt Tòa án làm trung tâm cải cách tư pháp.

Thứ sáu,bổ sung thêm việc định giá lại tài sản trong trường hợp “có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự” nhằm tạo cơ chế dân chủ, công khai khi có khiếu nại, tố cáo trong việc định giá tài sản.

2. Những vấn đề còn vướng mắc

Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 104 BLTTDS

Với quy định này thì có ba trường hợp mà Toà án phải ra quyết định định giá (không phụ thuộc vào ý chí của các đương sự) như sau:

– Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản.

– Các đương sự đưa ra các mức giá tài sản khác nhau.

– Các đương sự không thỏa thuận được giá tài sản.

Quy định này là mâu thuẫn với quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp của đương sự. Theo chúng tôi, chỉ cần đương sự đưa ra một mức giá phù hợp với giá thị trường, thì cho dù cả hai bên đương sự đưa ra các mức giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản, thì Tòa án cũng không thể dựa vào đó để tiến hành định giá tài sản. Trước đây, theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 hướng dẫn áp dụng Điều 92 BLTTDS quy định: “Trường hợp các bên đương sự không tự thỏa thuận được về việc xác định giá tài sản, nhưng không yêu cầu Tòa án yêu cầu tổ chức thẩm định giá tiến hành định giá tài sản hoặc không yêu cầu Toà án thành lập Hội đồng định giá tiến hành định giá tài sản thì Tòa án yêu cầu các bên đương sự đưa ra giá của tài sản nhưng không được vi phạm hướng dẫn tại các khoản 2, 3, 4 Điều 2 của Thông tư liên tịch này. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đương sự nhận được yêu cầu của Toà án, nếu các bên đương sự đưa ra được một mức giá thống nhất, thì Tòa án lấy mức giá này làm giá tài sản. Trường hợp các đương sự đưa ra các mức giá khác nhau, thì Tòa án lấy mức giá trung bình cộng của các mức giá do các đương sự đã đưa ra. Trường hợp chỉ có một đương sự đưa ra giá tài sản còn các đương sự khác không đưa ra giá đối với tài sản đang tranh chấp thì Toà án xác định giá tài sản theo mức giá của bên đương sự đã đưa ra” (Điều 17). Hướng dẫn trên là phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự.

Ảnh minh họa

Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS

Điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS quy định như sau: “Các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc với người thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá”.

Theo quy định này, cũng có ba trường hợp mà Toà án phải ra quyết định định giá (không phụ thuộc vào ý chí của các đương sự) như sau:

Một là,các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước.

Hai là,các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

Ba là,có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp luật khi thẩm định giá.

Trong cả ba trường hợp trên, nếu giá mà các bên thoả thuận với nhau hoặc thoả thuận với tổ chức thẩm định giá tài sản mà mức giá này thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước hoặc với người thứ ba, thì Toà án không chấp nhận sự thoả thuận này và Toà án ra quyết định định giá tài sản.

Vậy, hiểu thế nào là giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm định giá? Bởi, giá thị trường là một khái niệm rất mơ hồ, chung chung, không có khả năng xác định, đặc biệt đối với các “mặt hàng” có nhiều biến động như: Đất đai, nhà ở, chứng khoán, cổ phiếu… Ngoài ra, thời điểm định giá cũng là một trong những vấn đề còn gây nhiều tranh cãi, bởi lẽ, một vụ án dân sự có thể được/bị giải quyết trong một thời hạn khá dài, trải qua rất nhiều thủ tục: Sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vậy, thời điểm định giá là thời điểm của sơ thẩm lần đầu hay mỗi một giai đoạn sẽ tiến hành định giá cho phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản tranh chấp?

Theo hướng dẫn của Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 ngày 28/3/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng, thì trong trường hợp này Toà án yêu cầu các đương sự phải nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản. Tuy nhiên, nếu các đương sự không nộp tạm ứng chi phí định giá vì cho rằng giá mà các bên thoả thuận là phù hợp với giá thị trường, thì Toà án xử lý như thế nào, Toà án có quyền đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 không? Nếu không thì xử lý như thế nào?

(Trích bài viết: “Một số vướng mắc về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong BLTTDS năm 2015” của Ths. Nguyễn Nam Hưng, Viện 2, VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Kiểm sát số 9/2018).

Thẩm định giá: Những chiêu “làm xiếc” với tài sản Nhà nước

Việc thẩm định giá (TĐG) tài sản là khâu vô cùng quan trọng trong các thương vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.

Thế nhưng, việc thẩm định không được thực hiện chính xác, sai quy chuẩn sẽ dẫn tới nguy cơ gây thiệt hại lớn cho tài sản Nhà nước, những sai phạm trong thẩm định giá AVG vừa được nêu trong kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ (TTCP) cho thấy sự lỏng lẻo trong quá trình này.

Từ định giá vô căn cứ tài sản DN

TĐG có vai trò rất quan trọng khi đó là khâu đưa ra giá trị xác thực nhất của tài sản, là giá trị mà ở đó người mua và người bán dễ dàng gặp nhau nhất. Đây không nhất thiết là giá giao dịch cuối cùng của tài sản, nhưng sẽ là căn cứ căn bản để hai bên thương thảo với nhau. Chính vì thế, tính khách quan là yếu tố quan trọng trong việc thuê TĐG nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên.

Thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần AVG đã được TTCP chỉ ra nhiều sai phạm, trong đó có việc thẩm định giá, đang được các cơ quan chức năng kiến nghị xử lý nghiêm. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, trong thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần AVG, Mobifone đã vi phạm quy định của Luật Đấu thầu khi chuyển file hồ sơ yêu cầu (HSYC) cho Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam (VCBS) trước khi phát hành HSYC. Việc làm này vi phạm hành vi bị cấm, quy định tại điểm a, Khoản 7 Điều 89 Luật Đấu thầu.

Đồng thời, doanh nghiệp này còn cho nhà thầu bổ sung tài liệu vào hồ sơ đề xuất (HSĐX) của nhà thầu sau khi đã phê duyệt kết quả chỉ định thầu, vi phạm hành vi bị cấm, quy định tại điểm b, Khoản 4 Điều 89 Luật Đấu thầu.

Sau đó VCBS đã thuê Công ty TNHH Hãng kiểm toán AASC (AASC), Công ty TNHH Định giá Hà Nội – TP Hồ Chí Minh (Hanoi Valu) xác định giá trị AVG nhưng kết quả thẩm định giá của cả hai đơn vị này, theo TTCP, đều không có cơ sở tin cậy, vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.

Cụ thể, AASC xác định giá trị AVG tại thời điểm 31-3-2015 theo phương pháp dòng tiền chiết khấu là 33.299,48 tỷ đồng trên cơ sở dữ liệu kế hoạch kinh doanh giai đoạn 2015-2020 do AVG lập với mức tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận liên tục, đột biến gắn liền với kế hoạch đầu tư thêm 599 tỷ đồng, nhưng không có tài liệu chứng minh tính khả thi, không điều tra, khảo sát thị trường để so sánh, đánh giá mức độ, sức cạnh tranh trên thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền của AVG.

Đáng chú ý là, VCBS đã cung cấp kết quả thẩm định giá của AASC cho Mobifone nhưng không có sự thỏa thuận với AASC, vi phạm nghiêm trọng Tiêu chuẩn thẩm định giá. Kết quả thẩm định giá trị AVG do AASC thực hiện là 33.299,48 tỷ đồng; do VCBS thực hiện là 24.548,19 tỷ đồng không đảm bảo cơ sở pháp lý, không có cơ sở tin cậy. Tương tự, giá trị AVG do Hanoi Valu thẩm định tại thời điểm 31-3-2015 là 18.519,9 tỷ đồng cũng được đánh giá là không có cơ sở.

Chưa hết, kết quả thẩm định giá của Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và Thẩm định giá AMAX (AMAX) do MobiFone thuê tại thời điểm 31-3-2015 cũng vi phạm nghiêm trọng Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.

Theo đó, đơn vị này đã sử dụng trái phép nguồn số liệu dự báo kế hoạch kinh doanh do VCBS lập để thẩm định giá, trong khi số liệu này không có cơ sở; vi phạm các tiêu chuẩn thẩm định giá. Vì vậy, giá trị doanh nghiệp AVG tại thời điểm 31-3-2015 là 16.565 tỷ đồng không có cơ sở pháp lý, không tin cậy nhưng đã được Mobifone sử dụng để đàm phán với nhóm cổ đông AVG về giá mua cổ phần.

Việc lựa chọn Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư và Thẩm định giá AMAX (AMAX), Mobilfone chỉ căn cứ vào báo giá thấp nhất trong 3 đơn vị tư vấn, không thực hiện theo quy trình chỉ định thầu, vi phạm quy định tại Điều 55 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ.

Công ty TNHH Tư vấn Đầu tư và Thẩm định giá AMAX ở khu Miếu Nổi, P2, Q.Phú Nhuận, TP.HCM. Ảnh: Thiên Long

Mặc dù kết quả thẩm định giá trị AVG của các đơn vị tư vấn không khách quan, không đảm bảo cơ sở pháp lý và độ tin cậy; vi phạm quy định các tiêu chuẩn thẩm định giá; giới hạn không đúng nhiều nội dung quan trọng, nhất là về cơ sở, tính khả thi của nguồn số liệu kế hoạch giai đoạn 2015 – 2020 của AVG mà đơn vị tư vấn đã sử dụng để xác định giá trị AVG; đáng chú ý là AMAX đã sử dụng số liệu đầu vào bất hợp pháp, không có cơ sở để tính “giá trị tài sản vô hình ngoài Bảng cân đối kế toán”,… nhưng Mobifone đã nghiệm thu kết quả TĐG. Thậm chí, còn nhận xét, đánh giá kết quả thẩm định giá này là “tuân thủ các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam”.

Chiều 15-3, phóng viên Báo Công an TPHCM đã đến trụ sở Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và Thẩm định giá AMAX ở khu Miếu Nổi (P.2, Q.Phú Nhuận). Đây là căn nhà 4 tầng, ngoài công ty AMAX còn có một số công ty khác cũng đóng trụ sở tại đây. Khi biết chúng tôi liên hệ với công ty AMAX về các vấn đề xung quanh kết luận của Thanh tra Chính phủ liên quan đến vụ Mobifone mua 95% cổ phần AVG, nhân viên lễ tân cho biết tất cả các lãnh đạo của AMAX đều đã đi họp và đề nghị phóng viên để lại thông tin và sẽ phản hồi sau. Tuy nhiên, tối cùng ngày chúng tôi chưa nhận được phản hồi của công ty AMAX.

T.Long

Khi đàm phán giá mua cổ phần, Mobifone sử dụng kết quả thẩm định giá do AMAX xác định giá trị AVG là 16.565 tỷ đồng để đàm phám giá mua cổ phần mà không trừ các khoản nợ phải trả 1.134 tỷ đồng, gây thiệt hại 1.134 tỷ đồng.

AMAX cũng đã sử dụng số liệu đầu vào không có cơ sở để xác định “Giá trị tài sản vô hình ngoài Bảng cân đối kế toán là 13.448 tỷ đồng”. Sau khi loại trừ giá trị tài sản vô hình 13.448 tỷ đồng và loại trừ nợ phải trả 1.134 tỷ đồng thì giá trị vốn chủ sở hữu của AVG tại thời điểm 31-3-2015 chỉ là 1.983 tỷ đồng (chưa tính đến việc định giá lại giá trị thực của các khoản AVG đã đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp); so với giá mua 95% cổ phần AVG là 8.889,815 tỷ đồng cho thấy nguy cơ hiện hữu thiệt hại nghiêm trọng vốn của Nhà nước tại Mobifone khoảng 7.006 tỷ đồng.

Đến đại hạ giá “đất vàng” của Nhà nước

Hai khu đất “vàng” tại TP.HCM do Bộ Tài nguyên và Môi trường TNMT) quản lý đã được mang ra bán trong năm 2013 và 2015 lộ rõ nhiều sai phạm, có dấu hiệu tiêu cực (Báo CATP đã có nhiều loạt bài điều tra). Đó là nhà đất số 8A Mạc Đĩnh Chi (MĐC), Q.1, thuộc Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam bộ (KTTVKVNB) và số 42 MĐC, Q.1, sử dụng làm trụ sở Cơ quan đại diện Bộ TNMT tại TP.HCM.

Hai khu đất “vàng” trên đều có giá trị hơn 100 tỷ đồng, lẽ ra Bộ TNMT và Bộ Tài chính cần xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Khi được chấp thuận, lãnh đạo hai bộ này làm việc, thống nhất với UBND TPHCM giao cho các Sở (TNMT, Tài chính, Tư pháp…) tiến hành các thủ tục bán đấu giá (BĐG) công khai, minh bạch, theo đúng quy định của pháp luật, thông báo rộng rãi cho nhiều doanh nghiệp bất động sản biết để cùng tham gia, nhằm thu về cho ngân sách số tiền cao nhất.

Đằng này, Bộ TNMT giao cho Đài KTTV khu vực Nam bộ và Văn phòng Bộ TNMT thực hiện, trong khi hai đơn vị hoàn toàn không có chức năng bán, chuyển nhượng đất.

Theo các chuyên gia, nhà đất số 42 Mạc Đĩnh Chi, Q.1, TP.HCM đã bán với giá không tương xứng với giá thị trường. Ảnh: Văn Cương

Liên quan đến nhà đất số 8A MĐC (gồm đất 1.282m2và nhà gần 2.000m2) , ngày 20-11-2012, Giám đốc (GĐ) Đài KTTVKVNB ký quyết định (QĐ) “chỉ định thầu”, giao Công ty SIAC thực hiện việc thẩm định giá. Việc “chỉ định thầu” là không đúng quy định pháp luật, đây là tài sản nhà nước có giá trị rất lớn, cần phải thông báo để nhiều đơn vị có chức năng tham gia, đưa ra giá thẩm định sát với giá thị trường nhất.

Ngày 27-2-2013, SIAC có chứng thư xác định, nhà đất 8A MĐC có giá 144,456 tỷ đồng; trong đó, đất là 140,507 tỷ (109,6 triệu đồng/m2) và nhà 3,949 tỷ. Nhiều chuyên giá bất động sản khẳng định, đây là khu đất “kim cương” ở trung tâm TP.HCM, giá 109,6 triệu đống/m2quá thấp so với thực tế chuyển nhượng tại thời điểm đầu năm 2013.

Ngày 22-5-2013, Bộ TNMT mới ký văn bản chỉ đạo BĐG nhà đất 8A MĐC nhưng Công ty cổ phần BĐG Lam Sơn (Q.Tân Phú, TPHCM) đã biết trước đó 9 ngày! Ngày 13-5-2013, Công ty Lam Sơn có văn bản gửi Đài KTTVKVNB, “mong được hợp tác để tổ chức BĐG tài sản trên” (?!). Và rồi Lam Sơn vượt qua mặt hai đơn vị khác (trong đó có Trung tâm Dịch vụ BĐG tài sản thuộc Sở Tư pháp TP.HCM), trúng thầu với mức phí được “đại hạ giá”, còn 87 triệu đồng, chỉ bằng 50% so với quy định.

Giám đốc Trung tâm Dịch vụ BĐG có văn bản khẳng định việc Lam Sơn chào phí BĐG rẻ là vi phạm Pháp lệnh phí và lệ phí. Tuy nhiên, GĐ Đài KTTVKVNB vẫn quyết để công ty tư nhân này trúng thầu. Khu đất “vàng” hàng trăm tỷ đồng giữa trung tâm Sài Gòn nhưng Phó GĐ Công ty Lam Sơn Nguyễn Chí Hiếu mang ra tận Hà Nội, thông báo bán đấu giá trên 1 tờ báo với vài dòng ngắn gọn, chữ nhỏ xíu như muốn càng ít người biết càng tốt (?!). Do rao bán “bí mật” nên chỉ có hai khách hàng nộp hồ sơ (?!).

Dù Báo CATP có bài phản ánh, chỉ ra nhiều bất thường nhưng việc BĐG vẫn diễn ra vào ngày 22-7-2013. Do giá khởi điểm “bèo” nên DNTN Xây dựng số 1 tỉnh Điện Biên (trụ sở P. Him Lam, TP Điện Biên) của “đại gia Mường Thanh” Lê Thanh Thản bung ra 238,12 tỷ để trúng đấu giá.

Theo một chuyên gia bất động sản ở TP.HCM, có sự chênh lệch số tiền khủng gần 94 tỷ đồng so với giá khởi điểm, một phần do tác động từ phản ánh của Báo CATP. Tuy nhiên, giá 238,12 tỷ vẫn còn quá thấp so với thị trường thời điểm đó; nếu được thông báo bán rộng rãi, nhất là tại TPHCM, số tiền thu được cho nhà nước chắc chắn còn cao hơn rất nhiều. Việc Lam Sơn được “chọn măt gửi vàng” rồi ra tận Hà Nội thông báo BĐG để một doanh nghiệp ở tận Điện Biên trúng khu đất “vàng” rõ ràng là có “vấn đề”.

Liên qua đến nhà đất 42 MĐC (gồm đất 1.107,9m2và tòa nhà 5 tầng), theo nhiều cán bộ ngành TNMT, việc BĐG còn “bí mật” hơn cả nhà đất 8A MĐC (!). Chỉ đến khi Bộ TNMT có công văn ngày 26-2-2015 xác định đã hoàn tất việc chuyển nhượng một số cơ sở nhà đất tại TP.HCM thì họ mới biết nhà đất 42 MĐC đã được mang ra bán, thu hơn 100 tỷ đồng.

Theo các chuyên gia bất động sản, chưa kể tài sản trên đất, chỉ riêng 1.107,9m2đất mặt tiền đường MĐC, Q.1 nhưng chỉ bán được hơn 100 tỷ đồng, chưa bằng ½ so với giá thị trường thời điểm năm 2015.

Cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều sai phạm nghiêm trọng trong việc BĐG nhà đất 42 MĐC. Đơn vị đứng ra tổ chức BĐG là Công ty cổ phần đấu giá Thành An (Công ty Thành An), trụ sở chính đặt tại thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội; chi nhánh Miền Nam ở Bến Vân Đồn, P1Q4, TP.HCM.

Trong việc BĐG nhà đất 42 MĐC, cơ quan chức năng phát hiện Thành An với Văn phòng Bộ TNMT (chủ đại diện tài sản nhà nước) đã tùy tiện đưa ra một số quy định trong quy chế BĐG tài sản trái pháp luật; không tiến hành niêm yết công khai nơi có tài sản bán đấu giá. Nghiêm trọng hơn, hai khách hàng tham gia đấu giá đã thông đồng với Thành An trong quá trình tổ chức BĐG, nhằm dìm giá, gây thất thoát, thiệt hại tài sản Nhà nước…

Những sai phạm trong TĐG tài sản ở thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG đã được TTCP kiến nghị Thủ tướng giao Bộ Tài chính chủ trì xử lý hoặc chỉ đạo xử lý theo quy định của pháp luật đối với các công ty tư vấn, các thẩm định viên về những khuyết điểm, vi phạm trong việc thẩm định giá trị AVG, tư vấn mua cổ phần AVG. Việc xử lý lỗi của cán bộ theo hướng hình sự hay dân sự còn tùy vào từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên đó là việc xử lý khi các sai phạm đã xảy ra, còn yêu cầu ngăn lỗ hổng trong quá trình TĐG vẫn đòi hỏi những cơ chế chặt chẽ hơn trước khi các sai phạm kịp xảy ra.

Luật sư Trương Trọng Nghĩa: Định giá là khâu then chốt của mọi giao dịch có giá trị bằng tiền

Trong kinh tế thị trường, rất nhiều hành vi và giao dịch dựa vào tiền và xác định giá trị bằng tiền; tiền là phương tiện, thậm chí đóng vai trò trung tâm trong rất nhiều quan hệ xã hội. GDP, đầu tư công, đầu tư tư, lợi nhuận, thuế, môi trường, phúc lợi xã hội… đều được đo đếm và đánh giá – nghĩa là định giá – bằng tiền, hoặc quy ra tiền. Tiền không phải là thước đo của mọi giá trị xã hội, nhưng nó cũng có thể và không ít khi được dùng để định lượng cả những giá trị phi vật chất, như tổn hại tinh thần, nhân phẩm, khen thưởng người có công, đánh giá năng lực cán bộ…

Luật sư Trương Trọng Nghĩa

Chính vì vậy, định giá là khâu then chốt của mọi hành vi và giao dịch có giá trị bằng tiền. Định giá, hay chính xác hơn là thẩm định giá trị của hàng hóa, tài sản, dự án, doanh nghiệp… là một ngành chuyên môn được đào tạo rất chuyên sâu và quản lý bằng khung pháp lý chặt chẽ.

Ở Việt Nam, ngành thẩm định giá trị còn mới mẻ cả về đào tạo, hành nghề và quản lý, nên có nhiều lỗ hổng, thiếu sót khiến cho việc định giá và thẩm định giá trị chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và quản lý nhà nước. Từ đó, những nhà kinh doanh xấu, những công chức tham nhũng đã lợi dụng, khai thác tình trạng này để trục lợi, chủ yếu là trên tài sản nhà nước, tài sản công dân gửi hay thế chấp tại các ngân hàng và trốn thuế, thông qua việc thẩm định giá không đúng sự thật.

Định giá doanh nghiệp để cổ phần hóa thì quá thấp, lập chi phí đầu tư công hay mua sắm tài sản công thì kê lên quá cao, khai giá trị tài sản hay thu nhập để đóng thuế thì luôn thiếu, định giá tài sản thế chấp hay đánh giá năng lực của doanh nghiệp sân sau để cho vay hay cấp vốn thì thổi phồng lên…

Còn bao nhiêu biến tướng khác trong việc thẩm định giá méo mó, sai sự thật để trục lợi bất chính. Tình trạng này đã làm lãng phí, thất thoát biết bao tài sản của nhà nước, của xã hội và của người dân lương thiện. Không chỉ các bên liên quan trực tiếp, những người thực hiện việc thẩm định giá, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư sai trên thực tế đã tiếp tay cho các cho các hành vi hay ý đồ trục lợi bất chính, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước và công dân.

Do những bất cập khách quan và khuyết điểm chủ quan, việc phát hiện các hành vi sai trái hay phạm pháp trrong việc định giá sai sự thật để trục lợi bất chính chưa kịp thời, khi vụ việc đổ bể thì mới nhận biết và xử lý, do đó đã quá trễ, thậm chí bế tắc không thể khắc phục. Cũng có nghĩa là còn rất nhiều vi phạm chưa bị phát hiện.

Ngay cả khi phát hiện, trong nhiều vụ việc rất khó chứng minh các thủ đoạn, cũng như tìm kiếm những chứng cứ tham nhũng, do đó việc xử lý không thích đáng, không đủ sức răn đe. Nếu không có biện pháp chấn chỉnh thì tình trạng này sẽ tiếp diễn, thậm chí tăng lên.

Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng liên tục suốt hơn 20 năm qua. Nhờ hội nhập quốc tế, cơ cấu kinh tế cũng đa dạng và phức tạp, quy mô và thu nhập bình quân đầu người tăng đáng kể so với 10, 15 năm trước. Vì vậy, nhu cầu thẩm định giá trị rất lớn, rất đa dạng.

Có rất nhiều nhu cầu thẩm định giá trị khác nhau đối với những đối tượng khác nhau của những chủ sở hữu khác nhau nhằm những mục đích khác nhau, nhưng rõ ràng việc đáp ứng nhu cầu đó đang rất bất cập.

Ví dụ rõ nhất là đối phó với tình trạng chuyển giá của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài từ nhều năm nay, hay là tìm phương thức đánh thuế taxi công nghệ gần đây vẫn rất lúng túng. Rõ ràng là cần thiết phải có chính sách hỗ trợ việc đào tạo chuyên gia thẩm định giá trị giỏi và đạo đức tốt cho các yêu cầu đa dạng đó.

Việc ban hành các tiêu chuẩn, các quy định về quản lý nghề và công việc thẩm định giá là hết sức cấp bách. Phải tuyển dụng các chuyên gia thẩm định giá giỏi vào các cơ quan quản lý nhà nước và bảo vệ pháp luật, muốn vậy phải điều chỉnh chính sách thu nhập cho họ, cũng như trang bị những phương tiện cần và đủ để đội ngũ này có thể hướng dẫn hoạt động thẩm định giá lành mạnh cho xã hội, đồng thời phản biện, phát hiện và xử lý kịp thời, phù hợp các trường hợp vi phạm. Những vụ việc đã phát hiện thì phải xử lý nghiêm, sa thải hoặc cấm hành nghề, và truy cứu trách nhiệm dân sự và hình sự theo quy định của pháp luật.

Trung Sơn (ghi)

Định giá tài sản thi hành án, vướng mắc từ thực tiễn

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định khá cụ thể về cách thức xác định giá tài sản kê biên, tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn còn bất cập.

Về thời hạn thỏa thuận về giá và tổ chức thẩm định giá kê biên, đa số ý kiến cho rằng quy định về thời hạn cho đương sự thỏa thuận xác định giá tài sản hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá hiện nay là chưa rõ ràng. Quy định “Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá” dẫn đến khi áp dụng luật, chấp hành viên phải thông báo cho đương sự thực hiện ngay việc thỏa thuận về giá hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá, mà không phải là sau khi kê biên hoặc thỏa thuận trong một thời hạn nhất định sau khi kê biên.

Mặt khác việc xác định mốc thời gian ký hợp đồng định giá như hiện nay cũng chưa thực sự hợp lý. Khoản 2 Điều 98 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên. Quy định thời hạn: “5 ngày làm việc kể từ ngày kê biên tài sản”, dẫn đến trong thực tế, đương sự không có một khoảng thời gian nhất định để thỏa thuận về giá tài sản kê biên hoặc về tổ chức thẩm định giá tài sản kê biên, điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự.

Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi quy định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 theo hướng quy định một khoảng thời hạn nhất định (kể từ ngày tổ chức kê biên tài sản) để đương sự thỏa thuận xác định giá tài sản kê biên hoặc thỏa thuận về tổ chức thẩm định giá để thẩm định giá tài sản kê biên. Và mốc thời gian để chấp hành viên ký hợp đồng định giá sẽ tính từ ngày đương sự không thoả thuận được về giá, về tổ chức thẩm định giá thay cho mốc thời gian “kể từ ngày kê biên” như hiện nay.

Về thời hiệu của chứng thư thẩm định giá, khoản 3 Điều 32 Luật Giá năm 2012 quy định: Kết quả thẩm định giá chỉ được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá. Do đó, giá trị kết quả thẩm định giá được sử dụng làm giá khởi điểm để bán đấu giá tài sản chỉ được áp dụng trong trường hợp chứng thư thẩm định giá còn thời hạn hiệu lực. Trong thực tế có những trường hợp việc ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản đúng thời hạn quy định nhưng việc bán đấu giá không thực hiện được trong thời hạn còn hiệu lực của chứng thư thẩm định giá do vụ việc bị hoãn, bị tạm đình chỉ theo quy định và hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ lại tiếp tục thi hành án, tiếp tục bán đấu giá tài sản, thì giá khởi điểm tài sản để bán đấu giá có được sử dụng kết quả thẩm định giá ghi trong chứng thư đã hết thời hạn hay không? Hay phải tổ chức định giá lại, hoặc cho các đương sự thỏa thuận xác định lại giá tài sản? Đây là những trường hợp trong thực tế có phát sinh còn có nhiều quan điểm khác nhau. Do đó, đề nghị xem xét bổ sung quy định cụ thể đối với những trường hợp này.

Về việc định giá lại tài sản kê biên, Điều 99 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về các trường hợp định giá lại tài sản kê biên thuộc trường hợp Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản: Đó là những vi phạm về trình tự thủ tục như hành vi ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá với tổ chức không có chức năng, nhiệm vụ thẩm định giá hoặc khi xác định giá đối với tài sản không ký được hợp đồng thẩm định giá, chấp hành viên đã không tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp hoặc cơ quan chuyên môn quản lý ngành, lĩnh vực của tài sản kê biên… Và trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản.

Trên thực tế phát sinh những trường hợp như: Tài sản kê biên đã thẩm định giá, đương sự không yêu cầu định giá lại hoặc đã yêu cầu định giá lại một lần nhưng vụ việc bị hoãn theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị, tạm đình chỉ theo quyết định tạm đình chỉ của người có thẩm quyền kháng nghị hoặc tạm dừng giải quyết khiếu nại mà tại thời điểm chuẩn bị đưa ra bán đấu giá thì giá tải sản lại có thay đổi lớn. Hiệu lực của Chứng thư thẩm định giá đã hết hạn theo quy định của Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó đề nghị quy định thêm các trường hợp được tiến hành định giá lại sau khi chứng thư thẩm định giá đã hết thời hạn sử dụng mà cơ quan Thi hành án dân sự chưa đưa tài sản ra bán đấu giá, đồng thời quy định rõ đối tượng phải chịu chi phí thẩm định giá lại trong những trường hợp này.

Quy định về thẩm định giá lại tài sản và giảm giá tài kê biên

  • Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện theo Điều 99 Luật Thi hành án dân sự 2008 và khoản 33 Điều 1 của Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, cụ thể:

    “1. Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
    a) Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản;
    b) Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định giá lại tài sản.
    2. Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 98 của Luật này”.
    Chứng thư thẩm định giá là kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá được lập thành văn bản và chỉ được sử dụng vào mục đích đã ghi trong hợp đồng. Chấp hành viên ký hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá nhằm mục đích xác định giá khởi điểm của tài sản đã kê biên để đưa ra bán đấu giá. Theo khoản 3 Điều 32 Luật Giá quy định thời hiệu của chứng thư thẩm định giá như sau:
    “3. Kết quả thẩm định giá chỉ được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá.”
    Trường hợp bạn hỏi thì sau khi có kết quả thẩm định giá tài sản đã được đưa ra bán đấu giá và bán nhiều lần vẫn không có người mua. Như vậy, kết quả thẩm định giá đã được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá.
    Do đó, nếu không thuộc các trường hợp định giá lại tài sản kê biên theo quy định trên thì Chấp hành viên thực hiện việc giảm giá tài sản theo khoản 36 Điều 1 của Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự quy định xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành như sau:
    “1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức bán đấu giá về việc tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản.
    Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu đương sự không thỏa thuận hoặc thỏa thuận không được về mức giảm giá thì Chấp hành viên quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá”.