Thẩm Định Dự Án

Liên Hệ : 0909.399.961

Archives Tháng 10 2023

Thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của 1 doanh nghiệp

(TBTCO) –Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 1928/QĐ-BTC về việc thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đối với Công ty Cổ phần Dịch vụ tài chính và Thẩm định giá tài sản Việt Nam.

Theo đó, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá mã số 363/TĐG đối với Công ty Cổ phần Dịch vụ tài chính và Thẩm định giá tài sản Việt Nam kể từ ngày quyết định này có hiệu lực (11/9/2023).

Công ty Cổ phần Dịch vụ tài chính và Thẩm định giá tài sản Việt Nam phải nộp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cho Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá) chậm nhất trong thời hạn 3 ngày.

Sửa Luật để quản lý dịch vụ thẩm định giá chuyên nghiệp, chuyên sâu hơn
Ảnh: Minh họa.

Đồng thời, chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá kể từ ngày thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm định giá.

Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá) thường xuyên có văn bản yêu cầu các doanh nghiệp thẩm định giá, các thẩm định viên nghiêm chỉnh chấp hành các quy định pháp luật về thẩm định giá.

Các doanh nghiệp thẩm định giá, các thẩm định viên về giá hành nghề trong quá trình cung cấp dịch vụ thẩm định giá cần tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thẩm định giá, Hệ thống Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan khác.

Trong quá trình hoạt động thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá phải đảm bảo thực hiện đúng quy trình thẩm định giá, các quy định về các cách tiếp cận và phương pháp trong thẩm định giá; tuân thủ nghiêm túc và đầy đủ các tiêu chuẩn chuyên môn, giữ vững tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp thẩm định giá.

Bộ Tài chính cũng yêu cầu các doanh nghiệp thẩm định giá ban hành quy định và nghiêm túc thực hiện về kiểm soát chất lượng thẩm định giá nội bộ của doanh nghiệp; thường xuyên tổ chức đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp, kịp thời phát hiện và khắc phục ngay những sai sót trong quá trình thẩm định giá.

Theo Bộ Tài chính, vì lĩnh vực thẩm định giá liên tục có những thay đổi, nhất là hệ thống pháp luật đang được sửa đổi và hoàn thiện nên Bộ Tài chính yêu cầu các doanh nghiệp và các thẩm định viên cần chủ động cập nhật thường xuyên văn bản pháp luật và kiến thức chuyên môn về thẩm định giá.

Đồng thời, doanh nghiệp cần chủ động, tăng cường cung cấp dịch vụ thẩm định giá đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo tiến độ và chất lượng theo hợp đồng đã ký kết với khách hàng thẩm định giá và quy định của pháp luật./.

Thẩm định giá: Đúng – sai cần căn cứ vào pháp luật về giá

(TBTCO) –“Nước ta đang thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mà giá cả hàng hóa, dịch vụ “trong lòng” của cơ chế kinh tế ấy là cơ chế giá thị trường” – theo ông Nguyễn Tiến Thỏa – Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam.
Thẩm định giá: Đúng – sai cần căn cứ vào pháp luật về giá
Ảnh minh họa

Theo quy định của pháp luật, các thành viên của Hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về ý kiến của mình khi nhận định, đánh giá, biểu quyết mức giá tài sản trong quá trình thẩm định giá

Tuy nhiên, các thẩm định viên về giá, những người “không có mặt” trong Hội đồng thẩm định, không tham gia vào “quyết định cuối cùng về giá tài sản thẩm định” mà chỉ đơn thuần “cung cấp dịch vụ tư vấn” cho Hội đồng thẩm định nhưng lại vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý như thành viên Hội đồng thẩm định!?.

Hiện vẫn đang tồn tại những quan điểm khác nhau về thẩm định giá trong cơ chế thị trường, trách nhiệm của thẩm định viên cũng như quyền hạn, trách nhiệm của thẩm định giá. MarketTimes đã phỏng vấn ông Nguyễn Tiến Thoả – Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam xung quanh vấn đề này.

Thẩm định giá: Đúng – sai cần căn cứ vào pháp luật về giá
Ông Nguyễn Tiến Thỏa – Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam

MarketTimes:Thẩm định giá là một nghề cần có kiến thức tổng hợp, áp dụng các phương pháp phù hợp. Tuy nhiên, gần đây xuất hiện những quan điểm khác nhau về thẩm định giá trong cơ chế thị trường, có quan điểm thẩm định giá phải căn cứ vào chi phí của tài sản, có quan điểm lại cho rằng phải căn cứ vào thị trường… dẫn đến việc nhận định việc đúng sai trong thẩm định giá còn có ý kiến rất khác nhau. Quan điểm của Ông về vấn đề này?

Ông Nguyễn Tiến Thoả:Hiện nay, nước ta đang thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mà giá cả hàng hóa, dịch vụ “trong lòng” của cơ chế kinh tế ấy là cơ chế giá thị trường.

Theo cơ chế giá thị trường thì giá của hàng hóa dịch vụ được hình thành do các nhân tố hình thành giá và các quy luật kinh tế của giá cả thị trường quyết định. Chính vì vậy đòi hỏi khi định giá hay thẩm định giá, kết quả của các mức giá xác định được đều phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp với giá thị trường.

Đó không chỉ là yêu cầu khách quan của cơ chế mà còn là yêu cầu bắt buộc tuân thủ theo quy định của pháp luật về giá cần được tôn trọng (ở đây không bàn đến các trường hợp lợi dụng cơ chế giá thị trường, làm trái quy định của pháp luật để trục lợi phải xử lý là đương nhiên).

Gần đây có quan điểm (trong đó có cả quan điểm của các cơ quan pháp luật) cho rằng dù là cơ chế thị trường thì định giá, thẩm định giá vẫn phải căn cứ vào chi phí sản xuất, giá thành để định ra mức giá cho thị trường mua bán (đối với hàng nhập khẩu là giá vốn hàng nhập khẩu, đối với hàng sản xuất trong nước là giá vốn tính đúng, tính đủ theo phương pháp chi phí cộng tới). Vì thế quan điểm này cho rằng cái sai của một số Công ty là khi tính giá theo chi phí là 1, nhưng khi thẩm định giá lại xác định giá cao hơn giá theo chi phí gấp 2-3 lần một cách thiếu căn cứ chi phí!

MarketTimes:Vậy vấn đề này cần được hiểu như thế nào thưa ông?

Ông Nguyễn Tiến Thoả:Trước hết, tôi cho rằng khi đánh giá đúng, sai chúng ta cần khách quan theo hướng căn cứ vào quy định của pháp luật và thực tiễn thị trường trong điều kiện những loại hàng hóa Nhà nước không còn định giá. Theo quy định của Luật Giá thì nguyên tắc quản lý giá xuyên suốt là: “Nhà nước thực hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Khoản 1, Điều 5, Luật Giá) và căn cứ để định giá gồm: “(i) Giá thành toàn bộ, chất lượng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm định giá, mức lợi nhuận dự kiến. (ii) Quan hệ cung – cầu hàng hóa, dịch vụ và sức mua của đồng tiền, khả năng thanh toán của người tiêu dùng. (iii) Giá thị trường trong nước, thế giới và khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm định giá” (Khoản 1 Điều 21 Luật Giá). Đối với thẩm định giá thì phải: “…xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ Luật Dân sự phù hợp với giá thị trường…”.

Như vậy, theo các quy định trên thì chi phí sản xuất, giá thành của hàng hóa dịch vụ chỉ là một trong nhiều căn cứ chứ không phải là căn cứ duy nhất định ra mức giá để đưa hàng hóa ra giao dịch trên thị trường (kể cả giá do Nhà nước định theo quy định tại Luật Giá).

Nếu chỉ lấy giá theo chi phí để buộc người mua người bán thực hiện bất chấp thị trường vận động, chấp nhận giá nào thì đó lại là tư duy về giá của thời kỳ “bao cấp”, không phù hợp với tư duy về giá thị trường. Bởi vì: Khi đưa hàng hóa ra trao đổi trên thị trường thì mức giá tính theo chi phí chỉ là điểm xuất phát ban đầu của người bán, họ cần tính toán bán giá bao nhiêu thì bù đắp được chi phí và có lãi, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhưng khi “cơ hội” thị trường cho phép họ có thể bán giá cao hơn chi phí rất nhiều thì họ phải bán theo giá thị trường, không một người bán nào lại chào giá người mua là tôi chỉ bán giá theo chi phí mà không theo thị trường.

Cũng vì lẽ đó mà người mua không thể mua được giá theo chi phí; Cả người mua và người bán phải chấp nhận “mệnh lệnh” của thị trường (chứ không phải mệnh lệnh hành chính áp đặt) là giá thị trường có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng giá theo chi phí được quyết định bởi các yếu tố cung cầu, cạnh tranh, vị thế của người bán, người mua và mặt bằng giá thị trường…

Chúng ta đã có một thực tế năm 2020: Giá khẩu trang y tế lúc bình thường giá 50.000 đồng/hộp, khi dịch Covid-19 bùng phát, nhu cầu tăng đột biến, giá “vọt” lên 350.000 đồng/hộp, hiện nay giá lại giảm về 50.000-60.000 đồng/hộp. Cũng năm 2020: giá thành thịt lợn hơi khoảng 50.000 – 55.000 đồng/kg, giá bán ở thời điểm bình thường khoảng 60.000 – 65.000 đồng/kg, nhưng khi cung cầu mất cân đối (cung nhỏ hơn cầu) giá “vọt” lên 100.000 đồng/kg, người chăn nuôi có lãi, nhưng khoảng tháng 9, tháng 10 năm nay giá lại giảm mạnh chỉ còn khoảng 30.000 – 35.000 đồng/kg… Giá đó đâu phải do chi phí sản xuất quyết định? Mà đó chính là thị trường quyết định.

Định giá, thẩm định giá không xem nhẹ việc tính giá theo chi phí nếu có đủ chứng lý, tình hình số liệu nhưng không thể chỉ có chi phí mà bỏ qua thị trường. Thẩm định viên được phép lựa chọn các phương pháp thẩm định giá phù hợp với mục đích thẩm định giá, cơ sở giá trị của tài sản, mức độ sẵn có của các dữ liệu thông tin… để xác định giá của tài sản theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.

Nếu thẩm định viên không tuân thủ nguyên tắc giá trị thị trường thử hỏi: Khi thẩm định giá để khách hàng bán tài sản (trong đó có tài sản Nhà nước ) mà định giá thấp hơn thị trường thì có bị thiệt hại không? Chắc chắn là thiệt hại.

Ngược lại khi thẩm định giá để khách hàng mua sắm tài sản (trong đó có mua sắm tài sản chi từ ngân sách Nhà nước) mà định giá thấp hơn thị trường có mua được hàng không ? đặc biệt khi nhu cầu cấp bách đặt ra (thiên tai, dịch bệnh….).

Cái sai mà chúng ta cần chống ở đây chính là không xác định đúng giá trị thị trường phù hợp với các chứng cứ khách quan của thị trường của tài sản xảy ra trong các trường hợp: Xác định giá khi bán tài sản thì định giá thấp, xác định giá khi mua tài sản thì định giá cao bất hợp lý….

MarketTimes:Có ý kiến cho rằng thẩm định giá được trao quyền nhiều quá, đặc biệt là quyền được đưa ra mức giá, quan điểm của ông về ý kiến này thế nào?

Ông Nguyễn Tiến Thoả:Về tổng thể thì một doanh nghiệp, một tổ chức nào hoạt động trong xã hội cũng đều được pháp luật quy định có quyền và nghĩa vụ nhất định. Nếu không có quyền gắn với chức năng, nhiệm vụ thì làm sao hoạt động được.

Nhưng cũng cần lưu ý là quyền trong một giới hạn chứ không phải quyền đó là vô hạn.

Công ty thẩm định giá cũng vậy họ phải có quyền nhưng nói theo ngôn ngữ đời thường quyền đó không phải là “quyền lực” đưa ra mức giá buộc khách hàng phải chấp nhận, tuân theo mà quyền đó chỉ là quyền dùng thời gian, công sức, trí tuệ để làm thuê cho khách hàng có tài sản thuê họ thẩm định giá theo hợp đồng do hai bên ký kết (ai thuê thì làm).

Nói theo ngôn ngữ pháp luật thì đó là quyền tư vấn, tư vấn cho khách hàng về giá tài sản, mức giá đó có được chủ tài sản chấp nhận, phê duyệt hay không thuộc thẩm quyền của chủ tài sản và chủ tài sản chịu trách nhiệm về mức giá mà mình phê duyệt.

MarketTimes:Khi Hội đồng thẩm định giá Nhà nước đưa ra kết quả thẩm định lại kết quả thẩm định giá của Công ty thẩm định giá thì trách nhiệm của Hội đồng thẩm định giá Nhà nước như thế nào?

Ông Nguyễn Tiến Thoả:Hiện nay, tài sản Nhà nước phải thẩm định giá theo quy định của Luật Giá được thực hiện theo Điều 44 Luật Giá.

Để thẩm định giá những loại tài sản này, khi cần thiết, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập Hội đồng thẩm định giá Nhà nước nhằm xử lý 2 trường hợp: Thẩm định lại kết quả thẩm định giá của Công ty thẩm định giá mà cơ quan Nhà nước thuê để thẩm định giá các tài sản Nhà nước có giá trị lớn; Khi được cơ quan Nhà nước giao trực tiếp thẩm định giá tài sản nào đó thì Hội đồng có thể thuê Công ty thẩm định giá thẩm định giá tài sản đó nhằm có thêm thông tin phục vụ cho việc thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá.

Như vậy, theo quy định của pháp luật về giá thì cả 2 trường hợp trên, kết quả thẩm định giá của các Công ty thẩm định giá gửi đến Hội đồng chỉ là một trong nhiều kênh thông tin tư vấn để Hội đồng xem xét theo nguyên tắc độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, trung thực, khách quan trong quá trình thẩm định giá.

Kết quả thẩm định giá cuối cùng để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt không thuộc về các Công ty thẩm định giá mà thuộc Hội đồng thẩm định giá Nhà nước.

Cũng chính vì vây Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 6/8/2013 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá đã quy định: Các thành viên của Hội đồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về ý kiến của mình khi nhận định, đánh giá, biểu quyết mức giá tài sản trong quá trình thẩm định giá.

Hội đồng chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá tài sản.

MarketTimes:Xin cảm ơn ông!

Khái niệm và các phương pháp thẩm định giá

Thẩm định giálà quá trình xác định giá trị của một tài sản, bất động sản, doanh nghiệp hoặc công ty dựa trên các yếu tố khác nhau như thông tin thị trường, dữ liệu tài chính, cấu trúc vốn và các yếu tố kinh tế xã hội. Mục đích chính của thẩm định giá là đưa ra một con số chính xác và đáng tin cậy để giúp người mua, người bán hoặc các bên liên quan trong quyết định về giá trị của tài sản.

Phân loại thẩm định giá

Phân loại thẩm định giá.

Có nhiều phương pháp và phân loại khác nhau trong lĩnh vực thẩm định giá, nhưng chúng có thể được chia thành hai loại chính: thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp.

1. Thẩm định giá tài sản

Thẩm định giá tài sản liên quan đến xác định giá trị của các tài sản cụ thể như bất động sản, ô tô, thiết bị, hoặc các tài sản khác. Có các phương pháp sau đây được sử dụng trong thẩm định giá tài sản:

  • Phương pháp so sánh: Dựa trên việc so sánh với các tài sản tương tự đã được bán gần đây để xác định giá trị tương đối.
  • Phương pháp chi phí: Xác định giá trị dựa trên chi phí tái tạo hoặc thay thế của tài sản.
  • Phương pháp lợi nhuận: Đánh giá giá trị dựa trên khả năng sinh lời mà tài sản có thể mang lại trong tương lai.

2. Thẩm định giá doanh nghiệp

Thẩm định giá doanh nghiệp liên quan đến xác định giá trị của một công ty hoặc doanh nghiệp. Đây là quá trình phức tạp hơn và yêu cầu đánh giá các yếu tố tài chính, kinh doanh, và các yếu tố phi tài chính khác. Dưới đây là một số phương pháp phổ biến trong thẩm định giá doanh nghiệp:

  • Phương pháp bảng cân đối: Xem xét tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của công ty để tính toán giá trị.
  • Phương pháp dòng tiền chiết khấu: Dựa trên dòng tiền mà doanh nghiệp dự kiến sinh ra trong tương lai để tính toán giá trị hiện tại.
  • Phương pháp so sánh: So sánh công ty với các công ty cùng ngành hoạt động để xác định giá trị tương đối.

Các phương pháp thẩm định giá

Các phương pháp thẩm định giá.

Bên cạnh việc phân loại theo loại tài sản hoặc doanh nghiệp, còn có nhiều phương pháp thẩm định giá khác nhau có thể được áp dụng. Dưới đây là một số phương pháp phổ biến:

1. Phương pháp so sánh

Phương phápso sánh là một phương pháp thẩm định giá phổ biến, trong đó giá trị của tài sản được xác định bằng cách so sánh với các tài sản tương tự đã được bán gần đây. Để áp dụng phương pháp này, cần thu thập thông tin về các giao dịch tương tự và so sánh các yếu tố như kích thước, vị trí, tiện ích, và điều kiện thị trường. Ví dụ, nếu bạn muốn thẩm định giá một căn nhà, bạn có thể tìm hiểu về giá các căn nhà tương tự đã được bán trong khu vực đó trong khoảng thời gian gần đây.

2. Phương pháp chi phí

Phương pháp chi phí đánh giá giá trị dựa trên chi phí tái tạo hoặc thay thế của tài sản. Đối với bất động sản, ví dụ, người ta có thể tính toán chi phí xây dựng lại căn nhà từ đầu hoặc chi phí mua một căn nhà tương tự mới. Tuy nhiên, phương pháp này cần chú ý đến yếu tố thời gian, khả năng hủy giá trị theo thời gian và các yếu tố khác như tuổi của tài sản.

3. Phương pháp lợi nhuận

Phương pháp lợi nhuận dựa trên khả năng sinh lời mà tài sản hoặc doanh nghiệp có thể mang lại trong tương lai. Đối với các doanh nghiệp, phương pháp này thường sử dụng dự báo dòng tiền và biên lợi nhuận để tính toán giá trị hiện tại của doanh nghiệp. Đối với bất động sản, phương pháp này có thể áp dụng thông qua việc tính toán thu nhập cho thuê hoặc lợi nhuận từ việc bán lại.

Quy trình thẩm định giá

Quy trình thẩm định giá.

Quy trình thẩm định giá thường gồm các bước sau:

  • Thu thập thông tin: Thu thập dữ liệu và thông tin liên quan đến tài sản hoặc doanh nghiệp cần được thẩm định giá, bao gồm thông tin về vị trí, kích thước, điều kiện, thông tin thị trường và dữ liệu tài chính.
  • Xác định mục tiêu thẩm định giá: Xác định mục tiêu và ý định của việc thẩm định giá, bao gồm mục đích mua bán, thế chấp, bảo hiểm hoặc quản lý tài sản.
  • Lựa chọn phương pháp thẩm định giá: Dựa trên loại tài sản hoặc doanh nghiệp và mục tiêu thẩm định giá, lựa chọn phương pháp thẩm định giá phù hợp nhất.
  • Thực hiện phân tích và tính toán: Áp dụng phương pháp thẩm định giá đã chọn để thực hiện phân tích và tính toán giá trị dựa trên các yếu tố và dữ liệu có sẵn.
  • Xem xét kết quả và kiểm tra lại: Xem xét kết quả thẩm định giá, kiểm tra lại các tính toán và phân tích, đảm bảo tính logicvà độ chính xác của quy trình thẩm định giá. Nếu cần thiết, có thể thực hiện các điều chỉnh và điều kiện đặc biệt để đảm bảo kết quả phù hợp.
  • Báo cáo thẩm định giá: Tổng hợp kết quả thẩm định giá vào một báo cáo chi tiết, gồm các thông tin về quá trình thẩm định giá, phương pháp sử dụng, dữ liệu và tính toán, cùng với nhận định và giải thích cho kết quả cuối cùng.
  • Xem xét và kiểm tra lại: Sau khi hoàn thành báo cáo thẩm định giá, quá trình này cần được xem xét và kiểm tra lại để đảm bảo tính toàn vẹn và chính xác của dữ liệu, phân tích và kết quả.

Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nội – Công ty thẩm định giá uy tín Việt Nam.

Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nội là một công ty thẩm định giá uy tín tại Việt Nam. Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng về lĩnh vực thẩm định giá, công ty cam kết mang đến cho khách hàng những dịch vụ thẩm định giá chất lượng và tin cậy.

Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nội sử dụng các phương pháp thẩm định giá tiên tiến và hiện đại nhằm đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của quá trình thẩm định giá. Công ty tận dụng công nghệ và dữ liệu thông minh để thu thập, phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị tài sản hoặc doanh nghiệp.

Với phong cách làm việc chuyên nghiệp, tận tâm và luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu, Thẩm định giá Thành Nam đã và đang xây dựng được uy tín và lòng tin từ phía khách hàng trên khắp Việt Nam.

Kết luận

Trong bài viết này, chúng ta đã tìm hiểu về khái niệm và các phương pháp thẩm định giá. Thẩm định giá là quá trình quan trọng trong xác định giá trị của tài sản hoặc doanh nghiệp. Chúng ta đã đi qua các phân loại thẩm định giá, bao gồm thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp, cùng với các phương pháp thẩm định giá phổ biến như phương pháp so sánh, phương pháp chi phí và phương pháp lợi nhuận.

Quy trình thẩm định giá bao gồm thu thập thông tin, xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp, phân tích và tính toán, xem xét kết quả, báo cáo và kiểm tra lại. Cuối cùng, chúng ta đã tìm hiểu về Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nội – một công ty thẩm định giá uy tín tại Việt Nam.

Thẩm định giá là một quá trình phức tạp và quan trọng trong việc đánh giá giá trị của tài sản hoặc doanh nghiệp. Với việc áp dụng phương pháp thẩm định giá phù hợp và sử dụng các nguồn thông tin đáng tin cậy, người ta có thể đưa ra những kết quả thẩm định giá chính xác và đáng tin cậy. Qua đó, quyết định về mua bán, đầu tư, hoặc quản lý tài sản có thể được đưa ra dựa trên cơ sở khách quan.

Ngoài ra, thẩm định giá cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định giá tài sản trong các giao dịch bất động sản, đối tác kinh doanh, hợp đồng bảo hiểm, chia tài sản trong di sản, và các tình huống pháp lý khác.

Tuy nhiên, để đạt được kết quả thẩm định giá tốt, cần có sự hiểu biết chuyên môn, kỹ năng phân tích, và sự đánh giá khách quan của các chuyên gia thẩm định giá.

Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nộiđáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn khắt khe về nhân sự, trình độ chuyên môn và cơ sở vật chất kỹ thuật, đối với một công ty thẩm định giá chuyên nghiệp.”

Với tiêu chí: “Khoa học – Chính xác – Hiệu quả”

  • Cung cấp cácdịch vụ thẩm định giávới độ tin cậy và chuyên nghiệp, nhằm xác định giá trị thực tài sản sở hữu và góp phần minh bạch thị trường.
  • Tiên phong trong việc hợp tác với các đối tác quốc tế, không ngừng sáng tạo để vươn tới sự hoàn thiện.
  • Với tất cả những yếu tố trên, Công ty TNHH Định giá Bến Thành – Hà Nộimong muốn tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai, đáp ứng được nguyện vọng của khách hàng và mỗi khi được nhắc đến sẽ được biết như Công ty thẩm định giá chất lượng tại Tp.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Sóc trăng,…Mọi thông tin liên quan vềthẩm định giá tài sản,thẩm định dự án đầu tư,thẩm định giá bất động sản,chứng minh tài chính định cư,….xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ dưới đây.

Thẩm định giá là gì? Đặc điểm, vai trò của thẩm định giá là gì?

Khái niệm thẩm định giá

Theo Khoản 15 Điều 4 Luật Giá 2012 định nghĩa thẩm định giá như sau:

“15. Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.”

Chúng ta có thể hiểu: Thẩm định giá tài sản là hoạt động do các cơ tổ chức có chức năng thẩm định giá tiến hành xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự, đảm bảo phù hợp với giá trị thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định dựa theo tiêu chuẩn thẩm định giá, nhằm để phục vụ cho những mục đích khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội.

Đặc điểm của thẩm định giá

Thứ nhất, chủ thể của thẩm định giá là các cá nhân, cơ quan, tổ chức có chắc năng thẩm định giá. Có nghĩa là chủ thể phải được công nhận có chức năng thẩm định giá mới được hoạt động thẩm định giá, nếu không có chức năng thì kết quả thẩm định giá không có giá trị về mặt pháp lý. Suy ra chỉ có những chủ thể được quy định mới được tham gia thẩm định giá và buộc phải có chức năng thẩm định giá thì kết quả thẩm định giá mới có giá trị về mặt pháp lý.

Thứ hai, nội dung của hoạt động thẩm định giá là xác định giá trị bằng tiền của tài sản. Như đã nói ở trên nếu đánh giá là ấn định giá hàng hóa dịch vụ một cách chủ quan áp đặt nhằm đưa hàng hóa vào lưu thông trong nền kinh tế thị thẩm định giá lại là xác định giá trị của hàng hóa đó với nội dung là đánh giá hoặc đánh ga lại giá trị hàng hóa phù hợp với thị trường tại một thời điểm, địa điểm nhất định. Việc xác định giá trị là hoạt động rất khách quan độc lập thực hiện dựa trên các tiêu chuẩn về thẩm định giá. Tài sản xuất hiện trên thị trưởng với rất nhiều đặc tính khác nhau và việc xác định đúng giá trị bằng tiền với đặc tính kỹ thuật được yêu cầu đổi hỏi chủ thể thẩm định giá phải hiểu và nắm bắt đúng thị trường.

Thứ ba, đối tượng của thẩm định giá là tài sản. Tài sản là một khái niệm rất chung chỉ những vật, quyền thuộc sở hữu của một cá nhân, tổ chức nào đó. Như vây, tài sản ở đây có anh nghĩa nhấn mạnh quyền sở hữu hơn là việc xác định nó là cái gì. Tuy nhiên, trên thực tế thẩm định giá có thể xác định đối tượng được hưởng đến chủ yếu là động sản bất động sản, doanh nghiệp, như vậy, những gì có thể được định giá thành tiền đều có thể là đối tượng của thẩm định giá.

Thứ tư, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thẩm định giá gồm đa điểm, thời điểm, mục đích tiêu chuẩn thẩm định giá Từ khi Đảng và nhà nước có chính sách xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thi khái niệm giá thị trường đã bắt đầu không còn xa lại với chúng ta. Thẩm định giá ảnh hưởng bởi địa điểm và thời điểm do giá trị trường biến đổi nhanh chóng tại thời điểm này, giá trị bằng tiền của tài sản có thể rất thấp nếu như nhu cầu của người mua giảm nhưng có thể thay đổi chỉ trong một thời gian ngắn nếu lại có sự biến đổi về nhu cầu hay cạnh tranh giữa các điểm nhà cung cấp.

Sự tác động của mục đích thẩm định giá không giống với thời điểm và địa điểm nhận điểm do tác động không phải trực tiếp nh hưởng đến giá trị bằng tiền của tài sản ảnh hưởng đến người sử dụng kết quả thẩm định giá của cơ quan tổ chức. Nếu như với mục đch thẩm định của khách hàng chỉ là mua sắm tài sản thì giá trị thẩm định phải là mức gi trần trong hồ sơ mua sắm của khách hing tức là ở mức giá thẩm định đó, người mua đã có thể đạt được mục đích mua sắm tài sản của mình Còn nếu như là mục đích thanh lý tài sản thì giá trị thẩm định phải là giá trị có lợi nhất cho khách hảng để họ thu lại được tối đa phần giá trị còn lại của tài sản.

Do vậy, sự ảnh hưởng từ yếu tố mục đích thẩm định là hướng đến yếu tố quyển lợi khách hàng. Song song với đó, hoạt động thẩm ảnh giá cũng chịu sự chi phối bởi các tiêu chuẩn thẩm định giá, thẩm định viên buộc phải tuân theo một trong những tiêu chuẩn thẩm định giá đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành và lấy đó làm cơ sở lý giải cho kết quả thẩm định giá của mình không có bất cứ một quá trình thẩm ảnh nào nằm ngoài các tiêu chuẩn được quy định khi áp dụng vào hoạt động thẩm định giá.

Vai trò của thẩm định giá

Thứ nhất, thẩm định giá góp phần đảm bảo tính chính xác của việc xác định giá trị của tài sản trong nhiều mục đích công. Hiện nay, vấn đề đảm bảo tính minh bạch trong việc mua sắm tài sản công cũng như xác định giá trị doanh nghiệp có vốn nhà nước đang trở nên rất cần thiết và mang lại hiệu quả. Hoạt động thẩm định giá đã góp phần quan trọng là một cơ sở tin cậy cũng như một kênh tham khảo giá đảm bảo nhằm giúp cơ quan nhà nước tiếp cận sát hơn với giá trị tài sản. Dựa trên những đặc điểm của thẩm định và chúng ta thấy được hoạt động thẩm định giá là một quá trình với nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thẩm định giả nhưng đều được quản lý và giới hạn trong những tiêu chuẩn nhất định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Thứ hai, thẩm định giá làm giảm gánh nặng và hạn chế rủi ro trong trách nhiệm xác định giá trị tài sản của khách hàng có thể trên thực tế, việc xác định giải trị tài sản không phải quá khó khăn nhưng trong một số trường hợp bản thân khách hàng tự định giá giá trị của tài sản minh sở hữu sẽ không đảm bảo về tính minh bạch và đúng đắn không có tính pháp lý đối với bên thứ ba. Cho nên cơ quan, tổ chức thẩm định giá tham gia thẩm định giá tài sản được xem như một bên chi thi thứ ba khách quan có chức năng thẩm định chính xác giá trị tài sản giảm gánh nặng của những cá nhân, tổ chức có tài sản tự định giá trong các trường hợp sai sót về quy trình hoặc đưa ra kết quả thẩm định giá không chính xác .

Thứ ba, thẩm định giá đã trở thành một phương thức giải quyết bất đồng giữa các bên trong tranh chấp xảc định giá trị tài sản. Trong trường hợp này, thẩm định giá tham gia như một phương thức độc lập và có tính công bằng chính xác giữa các tổ chức có vấn đề trong việc tranh chấp giá trị tài sản ở đây, vai trò này chủ yếu hưởng đến đối tượng giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp nhẩm dàng hóa lợi ích của các bên trong việc xác định tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Khuôn khổ pháp lý, các văn bản quy định về hoạt động thẩm định giá (TĐG) ở Việt Nam đã được xây dựng tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, do hoạt động kinh tế – tài chính đang phát triển nhanh, kéo theo sự phát triển nóng của lĩnh vực TĐG, trong khi chính sách và pháp luật không theo kịp, dẫn đến phát sinh một số bất cập trong hoạt động này. Để giải quyết các “nút thắt” về TĐG cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng: Hoàn thiện cơ chế đánh giá tín nhiệm thẩm định viên, doanh nghiệp TĐG; rà soát bổ sung các quy định về xử lý hành vi vi phạm của thẩm định viên, doanh nghiệp TĐG…

Đặt vấn đề

TĐG là hoạt động tất yếu trong nền kinh tế thị trường và phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều loại hình tài sản, loại hình thẩm định (như: TĐG bất động sản, TĐG doanh nghiệp, TĐG động sản, TĐG dự án đầu tư, TĐG tài nguyên, TĐG tài sản vô hình…); pháp lý tài sản; quản lý nhà nước (QLNN) về hoạt động TĐG; tính đa dạng và phức tạp của chủ thể, nội dung và đối tượng của TĐG…

Ở Việt Nam, lĩnh vực TĐG phát triển khá nhanh và phức tạp, thể hiện ở số lượng doanh nghiệp TĐG và thẩm định viên (TĐV) phát triển và mở rộng nhanh chóng. Kể từ khi Luật Giá có hiệu lực và Đề án 623 về “Nâng cao năng lực hoạt động TĐG của Việt Nam giai đoạn 2013-2020” (Quyết định 623/QĐ-BTC ngày 28/3/2014 của Bộ Tài Chính) được ban hành, ngành TĐG đã phát triển “bùng nổ” về số lượng doanh nghiệp TĐG được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, số TĐV được cấp thẻ và số lượng TĐV về giá hành nghề. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế – tài chính phát triển nhanh cũng kéo theo sự phát triển “nóng” của lĩnh vực TĐG.

Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam

Về khuôn khổ pháp lý, Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH ngày 26/4/2002 là văn bản pháp lý đầu tiên về giá và TĐG được ban hành nhằm phát triển kinh tế thị trường, bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.

Đến năm 2012, Pháp lệnh giá được thay bởi Luật Giá số 11/2012/QH13 ngày 20/6/2012, có hiệu lực từ năm 2013 đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động TĐG phù hợp hơn với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước. Trên cơ sở đó, hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã được ban hành đầy đủ và đồng bộ. Tính đến nay đã có 02 nghị định, 12 thông tư về việc quản lý cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ TĐG; thi, quản lý, cấp và thu hồi thẻ TĐV về giá… Hệ thống tiêu chuẩn TĐG được ban hành gồm 13 tiêu chuẩn quy định và hướng dẫn đầy đủ về nghiệp vụ đối với dịch vụ TĐG với đa dạng tài sản như bất động sản, động sản, doanh nghiệp, tài sản vô hình… Đặc biệt, ngành TĐG cũng được quan tâm phát triển thông qua việc ban hành và thực hiệnĐề án 623.

Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển, nhiều vụ án nghiêm trọng có liên quan đến TĐG, xuất phát từ việc doanh nghiệp TĐG và TĐV vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông đồng, cố tình thu thập thông tin sai lệch, đưa thông tin đầu vào không chính xác, từ đó dẫn tới kết quả TĐG kém tin cậy. Do đó, việc hoàn thiện thể chế có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, giúp lĩnh vực TĐG phát huy vai trò và đóng góp quan trọng cho hoạt động kinh tế-xã hội củađất nước.

Số lượng doanh nghiệp TĐG tăng mạnh, trung bình tăng 15,6% giai đoạn 2013-2022, có những năm đạt tỷ lệ trên 20%/năm như giai đoạn 2015-2017 và năm 2020 với 298 doanh nghiệp, tương đương mức tăng 31,5% so với năm trước đó. Số lượng thẻ TĐV được cấp cũng tăng nhanh chóng. Đến nay, Bộ Tài chính đã cấp 2.352 thẻ thẩm định viên về giá, gấp 2 lần so với năm 2013. Về số lượng thẩm định viên đủ điều kiện hành nghề, năm 2022 có 1.464 thẩm định viên đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá. Như vậy, sau khoảng 13 năm, số lượng doanh nghiệp TĐG được cấp giấy đủ điều kiện kinh doanh thẩm định giá; Số thẻ TĐV đã tăng gấpnhiều lần.

Tuy nhiên, nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng xảy ra có liên quan tới các hành vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp TĐG và các TĐV. Thực tế số lượng doanh nghiệp phát triển nhanh dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh thông qua hạ thấp giá dịch vụ, cắt bớt quy trình TĐG, dẫn đến giảm chất lượng dịch vụ, đồng thời là nguyên nhân của nhiều vụ việc TĐG gây bức xúc trong dư luận và xã hội.

Trước tình hình đó, cơ quan QLNN đã thực hiện nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra nhằm xử lý vi phạm. Bộ Tài chính với vai trò là cơ quan QLNN về giá, TĐG đã thực hiện kiểm tra việc thực hiện, chấp hành các quy định pháp luật về giá trước sự gia tăng nhanh chóng về số lượng TĐV và các doanh nghiệp TĐG đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ. Số lượng doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động và số doanh nghiệp bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ tăng dần qua các năm. Đặc biệt, Nghị định số 12/2021/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về TĐG được ban hành. Căn cứ các quy định mới, chỉ trong tháng 4/2022, Bộ Tài chính đã rà soát, đình chỉ kinh doanh dịch vụ TĐG của gần 30 doanh nghiệp và thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ TĐG của 5 doanh nghiệp, sau khi Nghị định số 12/2011/NĐ-CP chính thức có hiệu lực. Do Nghị định số 12/2021/NĐ-CP đã thắt chặt hơn với các quy định về điều kiện cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh TĐG, hành nghề TĐG khiến số lượng TĐV và doanh nghiệp TĐG không đủ điều kiện hoạt động, buộc phải loại khỏi danh sách hành nghề và thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh dịch vụ TĐG doanhtăng mạnh.

Hoạt động TĐG còn các tồn tại, hạn chế xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cụ thể:

Nguyên nhânchủ quan:

Mộtlà,số lượng doanh nghiệp TĐG tăng nhanh và cạnh tranh không lành mạnh (như hạ mức phí thẩm định nhằm lôi kéo khách hàng). Để bù đắp chi phí hoạt động và tăng doanh thu, quy trình TĐG nhiều khi bị rút ngắn để tiết kiệm thời gian và chi phí hoạt động. Bên cạnh đó, tình trạng vi phạm về đạo đức hành nghề của TĐV gia tăng. Một bộ phận TĐV vi phạm đạo đức nghề nghiệp, có hành vi thông đồng, cấu kết với chủ tài sản hoặc các bên liên quan làm sai lệch kết quả TĐG nhằm nhận được các lợi ích về vật chất hoặc các lợiích khác.

Hailà,công tác thẩm định tài sản tại các ngân hàng còn nhiều hạn chế. TĐG có ý nghĩa quan trọng với ngành Ngân hàng, tuy nhiên còn tồn tại bất cập, như: (i) Một số ngân hàng có quy mô nhỏ, không có đơn vị chuyên môn TĐG, hoặc chỉ duy trì lực lượng TĐG khiêm tốn, trong khi công việc TĐG thường xuyên quá tải, khó đảm bảo chất lượng; thiếu điều kiện hỗ trợ chuyên môn, như: nguồn dữ liệu so sánh và không được cập nhật kiến thức, nghiệp vụ cũng như thiếu được chia sẻ kinh nghiệm thực tế; (ii) Vì lợi ích cá nhân, TĐV có thể cố tình làm sai lệch kết quả TĐG tài sản thế chấp; (iii) Do nghiệp vụ hạn chế, TĐV chủ quan đưa ra các ý kiến về giá trị của tài sản thế chấp, đầu tư, dẫn đến kết quả có độ tin cậy không cao; (iv) Không tuân thủ chính sách quản lý rủi ro, cạnh tranh giành khách hàng, dẫn đến vi phạm nguyên tắc TĐG.

Ba, công tác thanh tra, giám sát, QLNN về TĐG. Ngoài Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) là đơn vị thực hiện chức năng QLNN về giá và TĐG, các đơn vị QLNN khác, các địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác giám sát hoạt động của lĩnh vực TĐG liên quan đến ngành, lĩnh vực và địa phương của mình. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu của các vụ việc vi phạm gần đây là do sự vi phạm về đạo đức hành nghề của TĐV. TĐV và doanh nghiệp TĐG đã thông đồng, cấu kết với chủ tài sản, khách hàng TĐG và các bên liên quan làm sai lệch, thao túng kết quả TĐG nhằm trục lợi bất chính.

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất,Luật Giá năm 2012 đã giúp hoạt động TĐG đáp ứng một khối lượng công việc rất lớn về tư vấn giá trị tài sản của nền kinh tế trong điều kiện số lượng TĐV còn mỏng so với giá trị tài sản thẩm định, tuy nhiên, do tình hình hoạt động quá tải, đã ảnh hưởng đến chất lượng TĐG. Chẳng hạn, TĐG trong lĩnh vực ngân hàng, nợ tín dụng tính đến cuối năm 2022 của toàn nền kinh tế đạt gần 12 triệu tỷ đồng, trong đó, dư nợ tín dụng bất động sản đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng hơn 24% so với cuối năm 2021 là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng lớn hơn 21% tổng dư nợ đối với nền kinh tế, cao nhất trong 05 năm qua. Thông thường theo quy định của nhiều ngân hàng, số tiền khách hàng được vay chỉ bằng khoảng 50 – 70% giá trị của tài sản thế chấp. Giá trị tài sản thế chấp đã được thực hiện TĐG tiệm cận với mức gần 12 triệu tỷ đồng (tương đương với hơn 508 tỷ USD). Với số lượng khá lớn TĐV được phép hành nghề, áp lực thực hiện công việc là rất lớn và dễ xảy rasai sót.

Thứ hai,TĐG là một ngành tư vấn đặc thù, đa dạng lĩnh vực và yêu cầu kiến thức chuyên môn sâu và cần có kinh nghiệm, tuy nhiên, trong thực tế, kiến thức và kinh nghiệm của nhiều TĐV còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Ngoài ra, mục đích TĐG cũng sẽ ảnh hưởng lớn tới chất lượng dịch vụ, nghĩa là một doanh nghiệp được thẩm định để thoái vốn khác sẽ khác với doanh nghiệp hướng tới mục tiêu cổ phần hóa, tương tự doanh nghiệp mua bán sáp nhập khác với hướng tới góp vốn liên doanh, liên kết hay để thi hành án… Tuy nhiên, thực trạng doanh nghiệp không đủ năng lực về chuyên ngành nhưng vẫn nhận thực hiện hợp đồng dịch vụ, các TĐV chưa có đủ kiến thức cần thiết nhưng vẫn thực hiện khiến thực trạng TĐG tiềm ẩn nhiều hệ lụy khó lường.

Thứ ba,nguồn thông tin đầu vào phục vụ nghiệp vụ TĐG có chất lượng không cao, khó thu thập, thiếu tính hệ thống, không được cập nhật thường xuyên. Thông tin trên thị trường là đầu vào quan trọng của quy trình TĐG, có ảnh hưởng trọng yếu tới kết quả TĐG nhưng có chất lượng chưa cao, thiếu tính hệ thống, thiếu chính xác, khó thu thập… Trên thị trường cũng chưa có đơn vị đứng ra cung cấp thông tin đủ tin cậy; các nguồn thông tin thu thập từ các cơ quan nhà nước thường thiếu, không chính xác và không được cập nhật thường xuyên và có quy định về loại thông tin đượccông khai.

Thứ tư,chính sách thay đổi, điều chỉnh quy hoạch, thắt chặt tín dụng, hạn chế cho vay các lĩnh vực phi sản xuất… làm cho giá trị tài sản thế chấp sụt giảm khiến các kết quả TĐG đưa ra trước đó không còn chính xác và tin cậy. Ngoài ra, đãi ngộ và thu nhập dành cho TĐV còn thấp so với yêu cầu công việc, dẫn đến chưa thu hút được nhân lực chất lượng.

Một số đề xuất, khuyến nghị

Để giải quyết được các vấn đề tồn tại và nguyên nhân của hoạt động TĐG trong thời gian tới, việc sửa đổi Luật Giá cần chú trọng một số nộidung sau:

Mộtlà,mở rộng thiết chế, sửa đổi bổ sung cơ chế đánh giá tín nhiệm đối với TĐV, doanh nghiệp TĐG và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về các tiêu chí đánh giá, phương pháp và kết quả đánh giá hàng năm. Cần thiết bổ sung các quy định về công bố danh sách các tiêu chí đánh giá, phương pháp đánh giá kèm kết quả cập nhật hàng năm trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính, hoặc quy định bổ sung thiết chế, cơ chế đánh giá tín nhiệm đối với TĐV và công ty TĐG thực hiện bởi bên thứ ba kèm yêu cầu công khai thông tin đánh giá trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Bảng 1: Quy định hoạt động doanh nghiệp về thẩm định giá ở Trung Quốc và Hàn Quốc

Nội dung

Trung Quốc

Hàn Quốc

Doanh nghiệp TĐG và điều kiện kinh doanh dịch vụ TĐG

– Cơ quan thẩm định theo hình thức liên danh có từ hai TĐV trở lên; hơn hai phần ba số thành viên hợp danh là TĐV có trên ba năm kinh nghiệm làm việc và không bi đình chỉ hành nghề trong ba nămgần nhất.

– Một tổ chức thẩm định dưới hình thức công ty có ít nhất tám TĐV và hai hoặc nhiều cổ đông, trong đó hơn hai phần ba số cổ đông là TĐV có hơn ba năm kinh nghiệm làm việc và không bị đình chỉ hành nghề trong ba nămgần nhất.

– Trường hợp có hai thành viên hợp danh hoặc cồ đông của cơ quan thẩm định thì cà thành viên hợp danh hoặc cổ đông đều là TĐV có kinh nghiệm hành nghề trên ba năm và không bị đình chỉ hành nghề trong vòng ba nămgần nhất.

– TĐV chỉ được thành lập một văn phòng để hành nghề và báo cáo về Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông. Văn phòng này sẽ chỉ gồm những TĐV được phép hành nghề và trong trường hợp có biến động về lao động phải báo cáo lại Bộ.

– Văn phòng đăng ký đủ điều kiện kinh doanh sẽ được phép có cụm từ “văn phòng thẩm định” hay “công ty thẩm định” trong tên gọicủa mình.

– Về phí dịch vụ, Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông sẽ quyết định mức thu phí dịch vụ sau khi xem xét cụ thể.

Về đăng ký doanh nghiệp

Đăng ký với Sở Công nghiệp vàthương mại

Đăng ký với Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng vàgiao thông

Người đại diện pháp luật của doanh nghiệp TĐG

– Trường hợp doanh nghiệp có hai thành viên hợp danh hoặc là cổ đông của cơ quan thẩm định thì cả thành viên hợp danh hoặc cổ đông đều là TĐV có kinh nghiệm hành nghề trên ba năm và không bị đình chỉ hành nghề trong vòng ba năm gần đây.

– Không quy định cụ thể với các loại hình doanh nghiệp khác

– Cho phép người không phải là TĐV có thể trở thành người đại diện văn phòng thẩm định hoặc người đại diện pháp luật của doanh nghiệp thẩm định với điều kiện không thuộc vào danh mục những đối tượng bị cấm tham gia hoạt động TĐG quy định tại điều 12 đạo luật này

Cơ quan và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa khách hàng và doanh nghiệp TĐG

Khiếu nại lên cơ quan quản lý hoặc hiệp hội ngành để các cơ quan này thực hiện điều tra và trả lời khách hàng trong trường hợp cótranh chấp

Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng vàgiao thông

Nguồn: Tác giảtổng hợp

Pháp luật của Trung Quốc và Hàn Quốc quy định (Bảng 1): Hiệp hội nghề nghiệp là cơ quan đánh giá tín nhiệm của các TĐV hay các công ty TĐG, cung cấp các thông tin cho khách hàng và các bên liên quan về tín nhiệm trong hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm tránh rủi ro khi sử dụng dịch vụ TĐG. Nhiều quốc gia trên thế giới quy định, các công ty cung cấp các dịch vụ tài chính có vai trò quan trọng như dịch vụ kiểm toán, kế toán công chứng, luật… có thể được xếp hạng, đánh giá bởi các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín của nước ngoài, các tiêu chí đánh giá và phương pháp đánh giá về các công ty tư vấn này đều được công khai. Nhờ đó, rủi ro lựa chọn doanh nghiệp thiếu năng lực thực hiện dịch vụ tư vấn như trong mua sắm quản lý tài sản công sẽ được giảm thiểu đáng kể nếu yêu cầu lựa chọn các doanh nghiệp đạt mức xếp hạng tối thiểu nhất định.

Hailà, quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp TĐG về thiết lập và cải tiến hệ thống giám sát chất lượng, đảm bảo tính khách quan, trung thực và hợp lý của báo cáo định giá. Đối với các hoạt động TĐG Nhà nước phải thiết lập và cải tiến hệ thống quản lý nội bộ, giám sát sự tuân thủ luật pháp của các thành viên Hội đồng định giá, quy định các tiêu chí đánh giá và chịu trách nhiệm về hành vi của mình để có cơ chế phòng ngừa các rủi ro về đạo đức của TĐV và thành viên Hội đồng thẩm định.

Balà, nghiên cứu bổ sung thêm quy định hình phạt đối với các hành vi vi phạm của TĐV, doanh nghiệp TĐG, và các chuyên viên TĐG của nhà nước. Hiện nay, chế tài xử lý đối với những hành vi sai phạm trong TĐG được quy định tại Nghị định số 109/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn bị đánh giá là còn nhẹ, thiếu tính răn đe. Cần quy định thêm các hình thức xử phạt bổ sung bên cạnh hình phạt chính như tịch thu các khoản thu nhập do phạm tội mà có, hoặc phạt tiền bằng nhiều lần mức thu nhập do phạm tội mà có và đình chỉ hành nghề với TĐV, đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp TĐG. Đặc biệt, là với các hành vi ký, phát hành báo cáo cố ý làm sai lệch kết quả hoặc báo cáo có sai sót nghiêm trọng; sử dụng hoặc chỉ định những TĐV không đủ điều kiện tham gia cung cấp dịch vụ TĐG… Doanh nghiệp TĐG cũng sẽ bị xử lý nếu có TĐV hành nghề bị xử phạt.

Bốnlà, bổ sung các thiết chế, thể chế cung cấp thông tin về thị trường và nghĩa vụ bù đắp nhằm tránh rủi ro đưa ra ý kiến sai lệch về kết quả của các doanh nghiệp TĐG trong quá trình thực hiện hợp đồng khi nhận thấy không đảm bảo được chất lượng cung cấp dịch vụ, bao gồm cả việc kết hợp sử dụng các chuyên gia chuyên ngành để làm việc. Trong thực tế, bên cạnh rủi ro TĐV vi phạm đạo đức hành nghề, kết quả TĐG còn bị ảnh hưởng bởi sự chính xác của thông tin đầu vào. Ở Việt Nam, thiếu thông tin, hoặc nhiều thông tin đầu vào khó thu thập, thông tin không đầy đủ, không chính xác và thiếu tính hệ thống, như trường hợp TĐG máy thiết bị chuyên dụng sẽ tạo rủi ro lớn cho TĐV khi đưa ra ý kiến về giá trị tài sản. Cho dù có áp dụng phương pháp TĐG đúng thì cũng khó đưa ra kết quả chính xác.

Bảng 2: Quy định về hành nghề thẩm định giá ở Trung Quốc và Hàn Quốc

Nội dung

Trung Quốc

Hàn Quốc

Tiêu chuẩn và điều kiện trở thành TĐV hành nghề

– Bao gồm TĐV và những chuyên gia khác có kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tế.

– Đã vượt qua Bài kiểm tra năng lực TĐV. Nhà nước xác định ngạch chuyên viên TĐV theo nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội.

– Không thuộc những trường hợp sau: Những người đã bị trừng phạt hình sự do cố ý phạm tội hoặc tội cẩu thả trong hoạt động đánh giá, tài chính, kế toán, kiểm toán và chưa đủ năm năm kể từ ngày chấp hành xong án phạt không được tham gia hoạt động kinh doanhđịnh giá.

– Những người vượt qua kỳ thi sát hạch theo quy định và không thuộc các trường hợp: Người chưa thành niên, người đang được giám hộ hoặc được giám hộ hạn chế, người đã tuyên bố phá sản và chưa thể khắc phục xong tình trạng phá sản, người chưa qua ba năm kể từ thời điểm chấp hành án treo hoặc người chưa hết 1 năm kể từ ngày tạm hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc khi các hình phạt nặng hơn được tuyên chấm dứt thi hành; những người bị thu hồi thẻ TĐV quá 3 năm theo điều 13 và năm năm theo điều 39 (1) 11 và 12

– Những TĐV đủ điều kiện hành nghề sẽ được sử dụng cụm từ “TĐV”, những người không phải TĐV sẽ không được dùng cụm từ TĐV hay tên gọi tương tự khác trong tên gọi chức danhcủa mình.

Đơn vị tổ chức thi sát hạch, công bố danh sách TĐV đủ điều kiện hành nghề

Hiệp hội nghề nghiệp

Bộ đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông Hàn Quốc

Đơn vị cập nhật kiến thức, đào tạo chứng chỉ

Hiệp hội nghề nghiệp

Nguồn: Tác giảtổng hợp

Nhiều nước có thị trường tài chính phát triển, quy mô dữ liệu lớn, mức độ cập nhật dữ liệu rất cao và có những chuyên gia giỏi để phân tích dữ liệu nên chất lượng dữ liệu rất tốt, đủ để có thể đưa ra những dự đoán cho tương lai như: Morning Stars, Thompson Reuters, Fitch Ratings, Moody’s… các đơn vị này đầu tư rất lớn cho việc thu thập dữ liệu và bán những dữ liệu đó cho các công ty có nhu cầu. Việt Nam hiện vẫn chưa có những doanh nghiệp cung cấp dữ liệu với quy mô lớn đáng tin cậy như vậy; thông tin chủ yếu từ các cơ quan nhà nước, song số lượng còn thiếu, chất lượng dữ liệu thấp, không được thường xuyên cập nhật.

Nămlà, quy định rõ về đăng ký hành nghề TĐG, như quy định người có thẻ TĐV về giá chỉ được đăng ký hành nghề tại một đơn vị trong một khoảng thời gian nhất định… tránh mâu thuẫn do việc “đăng ký hành nghề đồng thời tại hai doanh nghiệp TĐG trở lên. Tại Trung Quốc, Hàn Quốc, các quy định cũng tương đồng với quy định này khi yêu cầu TĐV chỉ được hành nghề tại một công ty, đơn vị kinh doanh duy nhất trong một khoảng thời gian.

Tài liệu tham khảo:

  1. Ánh Tuyết (2022), Nhức nhối vấn nạn TĐG tiếp tay sai phạm. //vneconomy.vn/nhuc-nhoi-van-nan-tham-dinh-gia-tiep-tay-sai-pham.htm;
  2. Nam Kiên, Thái Dương (2022), Tạp chí Toà án Nhân dân điện tử. //tapchitoaan.vn/sai-pham-trong-tham-dinh-gia-tai-san-kien-nghi-bo-sung-che-tai-hinh-su6306.html;
  3. Xuân Mai (2021), Hà Nội: Bắt giam chủ tịch Công ty Cổ phần Y dược Vimedimex. //cand.com.vn/Phap-luat/ha-noi-bat-giam-chu-tich-cong-ty-co-phan-y-duoc-vimedimex-i634285/;
  4. Đỗ Mến (2017), Hình sự hóa hành vi nâng khống tài sản đảm bảo, nên hay không? //vst.mof.gov.vn;
  5. Ngân hàng nhà nước vẫn cấp tín dụng cho lĩnh vực bất động sản. //dangcongsan.vn/kinh-te/ngan-hang-nha-nuoc-van-cap-tin-dung-cho-linh-vuc-bat-dong-san-631241.html;
  6. Gỡ nút thắt trong hoạt động TĐG, //vneconomy.vn/go-nut-that-trong-hoat-dong-tham-dinh-gia.htm.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 5/2023

Điều kiện thành lập công ty thẩm định giá

Công ty thẩm định giá là gì?

  • Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.
  • Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật.

Tiêu chí xác định công ty thẩm định giá

  • Doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
  • Doanh nghiệp thẩm định giá được hoạt động khi Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật.

Điều kiện thành lập công ty kinh doanh dịch vụ thẩm định giá

Thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:

  • Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
  • Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó phải có thành viên là chủ sở hữu;
  • Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.

Thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:

  • Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
  • Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó tối thiểu phải có 02 thành viên góp vốn;
  • Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp;
  • Phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định. Người đại diện của thành viên là tổ chức phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.

Thành lập công ty hợp danh

Công ty hợp danh khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:

  • Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
  • Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó tối thiểu phải có 02 thành viên hợp danh;
  • Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty hợp danh phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.

Thành lập doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:

  • Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
  • Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó có 01 thẩm định viên là chủ doanh nghiệp tư nhân;
  • Giám đốc doanh nghiệp tư nhân phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.

Thành lập công ty cổ phần

Công ty cổ phần khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:

  • Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
  • Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó tối thiểu phải có 02 cổ đông sáng lập;
  • Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty cổ phần phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp;
  • Phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định. Người đại diện của thành viên là tổ chức phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.

Yêu cầu đối với người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá

  • Là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp
  • Có ít nhất 03 năm (36 tháng) là thẩm định viên về giá hành nghề trước khi trở thành người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá.
  • Không là người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong khoảng thời gian 01 năm (12 tháng) tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.

Điều kiện về thẩm định viên về giá

  • Có năng lực hành vi dân sự.
  • Có phẩm chất đạo đức, liêm khiết, trung thực, khách quan.
  • Có bằng tốt nghiệp đại học, sau đại học chuyên ngành vật giá, thẩm định giá và các ngành gồm: Kinh tế, kinh tế – kỹ thuật, kỹ thuật, luật liên quan đến nghiệp vụ thẩm định giá do các tổ chức đào tạo hợp pháp ở Việt Nam hoặc nước ngoài cấp.
  • Có thời gian công tác thực tế theo chuyên ngành đào tạo từ 36 (ba mươi sáu) tháng trở lên tính từ ngày có bằng tốt nghiệp đại học theo chuyên ngành quy định tại Khoản 3 Điều này.
  • Có Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá do cơ quan, tổ chức có chức năng đào tạo chuyên ngành thẩm định giá cấp theo quy định của Bộ Tài chính, trừ các trường hợp sau:
  • Người đã có bằng tốt nghiệp đại học, sau đại học trong nước hoặc nước ngoài về chuyên ngành vật giá, thẩm định giá;
  • Người đã có bằng tốt nghiệp đại học, sau đại học ngành kinh tế, kinh tế – kỹ thuật, kỹ thuật, luật liên quan đến nghiệp vụ thẩm định giá và đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng chuyên ngành thẩm định giá.
  • Có Thẻ thẩm định viên về giá do Bộ Tài chính cấp.

Thủ tục thành lập công ty thẩm định giá

Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ đăng ký thành lập công ty

Hồ sơ đăng ký thành lập công ty bao gồm các giấy tờ sau:

  • Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp;
  • Điều lệ công ty;
  • Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; danh sách cổ đông sáng lập và danh sách cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài đối với công ty cổ phần.
  • Chứng chỉ hành nghề kinh doanh thẩm định giá
  • Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
  • Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với chủ sở hữu công ty, thành viên công ty, cổ đông sáng lập, cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân; Giấy tờ pháp lý của tổ chức đối với chủ sở hữu công ty, thành viên, cổ đông sáng lập, cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức;
  • Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với người đại diện theo ủy quyền của thành viên, cổ đông sáng lập, cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức và văn bản cử người đại diện theo ủy quyền.

Bước 2: Nộp hồ sơ đến cơ quan đăng ký kinh doanh

  • Hồ sơ đăng ký thành lập công ty thẩm định giá được nộp tới Phòng đăng ký kinh doanh thông qua Cổng thông tin điện tử quốc gia về đăng ký doanh nghiệp để được thẩm định nội dung.
  • Thủ tục nộp lệ phí công bố thông tin đăng ký doanh nghiệp sẽ được thực hiện song song với thủ tục nộp hồ sơ thành lập doanh nghiệp.
  • Trong vòng 03 ngày làm việc, Phòng Đăng ký kinh doanh trả lời người nộp hồ sơ về tính hợp lệ của hồ sơ, thông báo thay đổi, bổ sung hồ sơ (nếu có).

Bước 3: Cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

Thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ

Bước 4: Thực hiện các thủ tục sau khi thành lập công ty thẩm định giá

  • Khắc con dấu;
  • Treo biển tại trụ sở công ty;
  • Mở tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp và thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
  • Đăng ký chữ ký số điện tử thực hiện nộp thuế điện tử;
  • Kê khai và nộp thuế môn bài;
  • In và đặt in hóa đơn;
  • Góp vốn đầy đủ đúng hạn trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày cấp đăng ký kinh doanh.

Thủ tục xin Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá

Bước 1: Soạn thảo hồ sơ xin Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá

Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá gồm có:

  • Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo Mẫu do Bộ Tài chính quy định
  • Bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp;
  • Giấy đăng ký hành nghề thẩm định giá của các thẩm định viên đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp được doanh nghiệp xác nhận; Giấy chứng nhận bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về thẩm định giá cho thẩm định viên về giá hành nghề (nếu có);
  • Bản sao Hợp đồng lao động hoặc Phụ lục hợp đồng lao động (nếu có) của các thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp;
  • Danh sách xác nhận của doanh nghiện về vốn góp của các thành viên trong trường hợp không có thông tin về danh sách thành viên góp vốn, danh sách cổ đông tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
  • Biên lai nộp phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
  • Bản sao chứng thực văn bản bổ nhiệm chức vụ đối với đại điện pháp luật của doanh nghiệp, văn bản ủy quyền trong lĩnh vực thẩm định giá (nếu có).

Bước 2: Nộp hồ sơ xin Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá

  • Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá được nộp tại Cục Quản lý giá – Bộ Tài chính.
  • Doanh nghiệp lập 01 (một) bộ hồ sơ gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện.
  • Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Cục Quản lý giá có quyền yêu cầu thẩm định viên về giá hoặc doanh nghiệp giải trình hoặc cung cấp tài liệu phục vụ cho việc kiểm tra, đối chiếu, xác minh quá trình làm việc và các thông tin khác trong hồ sơ.

Bước 3: Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá

  • Trường hợp hồ sơ đủ điều kiện thì Cục Quản lý giá xem xét để cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ 01 (một) bộ hồ sơ hợp lệ.
  • Trường hợp từ chối, Cục Quản lý giá trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.